Thứ Hai, 6 tháng 10, 2014

53. THỰC HÀNH CỤ THỂ (13)


Chị NT ( Người tôi đã kể vào tập I), duyên lành xui tôi gặp chị, cũng là duyên lành khi chị gặp tôi … Chị bắt đầu hướng theo Chánh pháp, đi vào đường Đạo từ đó!
Mới tròn một năm mà chuyện kể về chị đã dài bằng một bản trường ca… Ngày đầu tiên chị đến nhà tôi – Mẹ Diêu Trì đã về nói chuyện Đạo, chuyện đời cho chị nghe, và cũng gần như ngay lập tức chị Giác ngộ! Nhớ lời Mẹ nói: “Phần hành nào đưa về cửa ấy.” Chị NT cũng đã vài lần đặt lòng tin vào đâu đó, sau thấy chưa mãn nguyện lại rời bỏ ra đi – cho đến một ngày …
Tôi xin Điển soi căn, tìm ra phần Linh căn của chị là một Thánh nữ cao – Đệ tử ruột của Mẹ Lê Sơn. Hèn nào từ ấy về sau, mọi hoạn nạn của chị đều có bàn tay Mẹ chuyển dời …
Hôm đó, khi phần Linh căn của chị về, tôi nhìn thấy, biết ngay là bị đọa trần. Khi tôi hỏi lý do, Mẹ Diêu Trì quay lưng, giở áo cô ấy cho tôi xem: những vết roi chồng chéo, đan xen thành sẹo: sẹo lớn, sẹo nhỏ, phần thịt như một mảnh đất bị cày xới loang lỗ, trông thấy mà “nát ruột”.
Mẹ nói là chị không có tội, nhưng vì bị chồng đánh đập dã man, chị sinh lòng phẫn hận, nên cứ đọa trần hoài…
Mẹ Diêu Trì thương chị lắm! Trong suốt sáu năm về ở chỗ tôi, chỉ có hai người được Mẹ đích thân tìm về không đợi cầu kiến là ông H.A (đứa con trần xác của Mẹ) và chị NT - Người đệ tử bất hạnh của Mẹ Lê Sơn!
Chị như là người chị tựa nương của tôi và cũng là “gánh nợ”. Mỗi lần chị lên là có chuyện cho tôi làm, mà chị lên thường lắm...
Chị nôn nao, háo hức, vội vã để làm chuyện công đức – cứ như sợ không kịp tháng, kịp ngày. Những người và chuyện chị đưa tới đều nặng nề, khó giải. Tôi “bị đòn” mệt xỉu – Còn chị, nghe tôi bệnh là chạy lên, đem các thứ chất đầy tủ lạnh để tôi ăn cho có sức mà chịu đòn … Rồi dọn quét, rồi nấu nướng thay tôi!
* Lần nọ, chị bị đau cổ, mỏi bại hai vai – Tôi chẩn thấy do bị Cửu Huyền hành, tôi có hứa để từ từ rồi xin giải nghiệp Cửu Huyền cho chị.
Thường các âm phần họ nhạy lắm – có ai tới nhà tôi vài lần, bắt đầu giác ngộ đường Đạo là họ bám theo, ra mặt để cầu xin được cứu! Nhất là Cửu Huyền, hết phần nầy tới phần khác … Các chị em Nhân Điện khi học xong lớp 5.2, bắt đầu phát triển tâm linh – Bước đầu tiên là trả nghiệp Cửu Huyền.
Trưa hôm sau, tôi nằm nghỉ trưa – Đang nửa mê nửa tỉnh bỗng thấy trôi vào một giấc mơ lạ: tôi thấy mình giúp chị NT cải táng phần mộ ông bà Cửu tộc, đào lên chỉ thấy hai, ba bộ xương người, còn lại toàn xương heo với chó … Tôi hỏi, chị NT trả lời: “Đó là những người ngày xưa có công với ông bà, chết rồi được táng chung trong phần mộ Cửu Huyền”
Trưa – mệt quá tôi leo lên gác nhà chị nằm nghỉ, nấu cơm xong chị NT gọi tôi xuống ăn cơm. Lúc đó cả người tôi đau nhừ tử, không thể trở dậy được nữa … Cố lết tới cầu thang, tôi không dám leo xuống vì sợ sẽ té từ trên cao xuống. Chị NT lại gọi, tôi đành trả lời: “Em đau quá, không đi được nữa rồi”. Đến đó, tôi tỉnh dậy …
Vừa trở mình, tôi thấy quả thực là mình đang đau y như vậy – trên giường … Tôi biết chuyện nầy không phải nhỏ!
Chị NT lên lần nữa – tôi điều tra ra hai ông Thần Tổ nghiệp với một trăm hai mươi Binh gia hồn xiêu phách lạc đói rét lang thang tự bao đời bao kiếp rồi chẳng biết …
Hai vị Thần Tổ nghiệp xin chiêu đãi binh gia, để họ đói họ quậy phá, trong tộc Tổ phát sinh loạn động, nạn tai dồn dập, tội nghiệp cho con cháu đời sau. Thế nhưng họ nhất định không cho “Giải giáp binh gia” … Mãi đến gần một năm sau, họ mới tự nguyện cho Giải Binh – đưa hai Thần nghiệp Tổ về nhà thờ Họ.
* Chị NT dạo ấy đã học Nhân Điện đến lớp mười ba, nhưng vì cảm nhận ít, chị hay thiếu tự tin – Chuyện gì cũng chạy lên tìm tôi … Giống y cô Lan (học viên Nhân Điện) – hai người cứ như một sứ giả phần âm, các âm vong níu chị để chị đưa lên tôi xin cứu.
Có lần – chị nghe ứng báo liên tục từ khoảng luân xa ba trở xuống. Thường người học viên Nhân Điện sẽ nghe phần âm báo bằng cách khều móc nhẹ trên người hoặc co giật, đau nhói cơ bắp: từ luân xa ba trở xuống là phần âm bên ngoài – cấp thấp. Từ luân xa bốn trở lên là phần âm Cửu huyền, khi họ ứng về ta sẽ nghe đau mỏi, tê bại hoặc đau cứng phần cổ và vai – Tà cao sẽ làm ta ớn lạnh từng hồi dọc sống lưng và “nổi da gà” từng đợt trên người!
Chị NT đếm cả thảy mười ba đợt, ứng báo có mười ba phần âm – Chị bảo: “Để từ từ đừng có níu tôi nữa, để tôi nấu cơm xong sẽ kêu cô Lan giúp cho” … Thế mà họ vẫn cứ khều móc liên tục làm chị NT lo lắng, phải điện cho tôi!
Tôi cho xếp hàng mà đếm - cả thảy mười ba đứa trẻ. Chúng khai là các phần Linh căn trốn đi chơi, giờ bị Trên bắt đi đày ở “Nhà mở Hòa Bình” … Tên một cơ sở, địa điểm hoàn toàn xa lạ với chúng tôi!
Lúc đó tôi đang có khách, đành hẹn ba giờ chiều sẽ tiếp xúc với chúng sau. Lũ trẻ lại trở về khều móc chị NT liên tục … Hơn hai giờ, tôi thấy có bảy đứa trẻ chơi giỡn lăng xăng ngoài sân nhà tôi, còn lại sáu đứa vẫn gác dưới nhà chị NT, theo khều chị liên tục suốt từ sáng đến giờ.
Lũ trẻ con tuổi đều trạc bảy, tám đến mười – Đứa nào cũng mặt mũi xinh xắn khôi ngô, mặc trên người bộ bà ba trẻ con tay dài, quần ống rộng màu khói nhang hoặc màu trắng, tướng vui tươi hớn hở, thông minh và láu lỉnh, trông dễ thương hết sức!
Ba giờ chiều chị NT lên nhà – chúng tôi mua bánh trái cho chúng ăn và xin Mẹ cho đưa về núi tu tập. Mẹ Diêu Trì về mang chúng đi, chị NT cứu được mười ba phần vong trẻ thơ xiêu lạc …
Lệnh Trên rất nghiêm khắc. Làm sai phải tội đi đày, ngoan ngoãn chịu tội một thời gian rồi phần nào khôn thì đi tìm nơi ứng cứu. Bề Trên có tha thứ hay không còn do các phần có ý thức chịu đựng và không gây nên nghiệp quả mới, nếu có thì đừng hòng được cứu!
Cõi trên, cõi Địa ngục hay trần thế đều như nhau: có Luật pháp thì cũng có cách ứng cứu, lách luật – Giống như người Luật sư khéo biện hộ sẽ cứu được người bị sai oan. Có điều phải khôn khéo mà xử trí, sao cho “hợp lý hợp tình” …
* Lại một ngày nọ – Chị NT nghe các âm vong khều móc liên tục, chạy lên tôi. Điều tra ra bốn mươi tám âm vong và hai vị chúa quỷ canh nghĩa trang gần nhà chị NT!
Kế hoạch chỉnh trang đô thị xóa các nghĩa trang, di dời các phần mộ, nhưng các âm vong ở đấy thì đâu ai biết mà di dời … Họ cứ ở tại chỗ, trôi dạt đầu hè góc phố khổ sở lang thang, gá ở lén lút nhà người nầy, người nọ.
Chị NT xác nhận điều ấy đúng – vì khi chị mua đất cất nhà có gặp xương cốt người chôn đã lâu, và nghe nói vùng chị ở xưa kia có nghĩa trang – sau nhà nước lấy cốt dời đi …
Tôi hỏi: “Giờ các người muốn chuyển về đâu?”. Vị Chúa Quỷ trông coi nghĩa trang nói : “Xin cho chúng tôi chuyển về nghĩa trang Bình Dương – ở đấy đất còn rộng, các nghĩa trang ở trong thành phố nầy đều chật cả rồi”.
Chúng tôi lại xin bề Trên chuẩn cho chuyển năm mươi vong về nghĩa trang Bình Dương – Cung cấp cho họ tiền bạc và lộc thực, xong phải chuyển thần thức tới nghĩa trang Bình Dương xin phép các vị Thần đất đai và các vị Chúa Quỷ canh nghĩa trang cho chuyển năm mươi âm vong về đó – Thế là xong!
* Rồi đến âm vong người chồng cũ của chị NT. Cha của hai đứa con gái – dù ông đã có cuộc sống khác … Khi chết đi, chị NT vẫn thỉnh Linh vị về thờ tại nhà: “Cho các con được vui” (lời chị NT)
Khi mời CMT (tên người chồng cũ) về, tôi thấy có hai vong trẻ con nắm tay ông, đứa trai đứa gái! Khi biết đó là con của người vợ sau, chị NT không vui: “Tại sao anh mang con người khác vào nhà.” Ông cúi đầu: “Đó là nghiệp chướng, nó theo níu kéo đấy thôi.”
Phần âm CMT không vào nhà được, đứng ở ngoài cửa – hỏi ra thì chưa đủ lễ rước vong … Tôi bày cho chị NT về cúng xin phép Cửu huyền, ông CMT từ ấy mới được về ở trong nhà – một thời gian sau nữa Mẹ cho đưa vong hai đứa bé đi đầu thai. Từ đó, mỗi khi chị NT lên nhà tôi, hồn CMT lại về ra mặt chào hỏi, cười rất tươi, không còn buồn như trước, cũng không còn hai “gánh nợ” hai bên …
* Lại một lần chị NT lên nhà, nhờ tôi hỏi tìm âm vong một người bạn thân: một nhà Thơ – người khi còn sống có tài, đạo đức và đặc biệt là làm thơ rất hay!
Vong người ấy về – bảo mình là một Đạo sĩ xuống trần để tu tập, nhiệm vụ chưa tròn thì bị chết oan … Chị NT cũng nhận cái chết của người ấy ai cũng bảo là chết oan hoặc chết chưa đúng số!
Anh em gắn bó với nhau lắm, lần nào mời vong về, nói chuyện một chốc là ai cũng khóc (vong nhập vào tôi – tôi khóc, chị NT cũng khóc)
Về sau – chị NT đưa một người em họ, một người bạn vong niên và người cháu họ của nhà Thơ ấy (xin phép được dấu tên). Hồn nhà Thơ về nói chuyện với từng người một … Người bạn vong niên hỏi: “Thế có nhớ kỷ niệm nào về tôi không”. Vong bảo: “Tôi còn nợ anh chung rượu từ biệt trước Linh sàng”. Người bạn lớn tuổi khóc, nhận là có đổ chung rượu từ biệt trước linh sàng để tiễn người ra đi.
Chiều hôm sau – tại Hội quán Gia Định họp mặt những người bạn thơ. Có cả tôi, chị NT cùng ba người anh em bạn ngày hôm qua!
Trừ tôi ra, những người trong tiệc ấy đều là bè bạn thân tình của nhà Thơ quá cố.
Tiệc khai mạc – tôi thấy vong nhà Thơ mở cửa phòng bước vào, đứng sau lưng người bạn vong niên. Tự dưng – như hồn nhập xác – Nhà thơ lão thành ấy luôn miệng nhắc lại những kỷ niệm xưa khi người bạn còn sống … Rượu chưa uống mà say, kể lan man – thoắt cười, thoắt khóc rất lạ!
Tôi lại thấy ba tôi mở cửa bước vào. Khi còn sống, ba tôi cũng là bạn thơ của vài người trong nhóm.
Tôi ngồi đó – lơ mơ giữa cái thực và ảo, lòng nghẹn đắng. Những người thân đã chết, hồn về phảng phất bên ta, vay chút nghĩa tình xưa, tìm chút dư vị cũ… Người còn sống có hay đâu – cuộc vui cứ râm ran: cụng ly và nâng cốc, mấy ai nhớ tưởng, đoái hoài!
Tôi nói với chị NT – cả hai chị em cùng khóc, giọt lệ âm thầm rơi vào đáy ly buồn!
Đêm đó – tôi làm một bài thơ, xin chép lại đây tặng các bạn:






VỌNG ẢO

Ngọn gió thiên thu lướt vội vàng
Tiệc tàn chưa nhỉ – tiệc chưa tàn!
Rượu nồng chưa nhắp, say nào trọn
Chén đắng còn nguyên – mộng lỡ làng...

Bạn ở phương nào, ta ở đây!
Cố nhân người hỡi – trách gì ai
Âm dương cách trở, hồn như gió
Về với đêm trường... với cuộc say!

Khóe mắt nào cay buổi hợp đoàn
Trời còn mưa nữa – gió đừng sang
Lòng lạnh...  biết làm sao để ấm
Chếnh choáng men cay, chếnh choáng buồn.

Rượu tiễn – sầu đưa với rã tay
Tìm trong ảo ảnh chút hồn say
Đêm này đêm nữa... đêm nào dứt

Mộng – mộng trường canh, giấc đọa đày!!
52. CÁ VƯỢT VŨ MÔN


* Có lần, trong ngày cúng rằm – Điển Ông đã nói với các chị em Nhân Điện nhóm của tôi: “Mấy mươi năm qua – chúng ta tôi luyện cô Lan đây như người thợ rèn luyện thanh kiếm thép: nung, dập xong đem ngâm giữa dòng suối lạnh mùa đông … Lại rèn dũa, lại nung, lại dập… Nhiều lần như vậy, nhiều năm tháng như vậy mới ra một thanh kiếm quý – Là cô Lan ngày nay đó”
Tôi nghe lời ấy – vừa tủi thân vừa đau đớn không nguôi … Tôi được lựa chọn để rèn dập nên thanh kiếm quý bất kể tôi có đồng ý hay không, có vui hay buồn, hài lòng hay bất mãn, đau đớn hay nhẹ nhàng, có muốn hay không đi nữa thì định mệnh vẫn cứ đi đúng trình tự của nó…
Tôi chỉ là một đấu bột, Thượng Đế là người thợ làm bánh – chiếc bánh thành hình như thế nào tùy theo ý muốn của người chế tác! “Thêm mắm dặm muối” hoặc cho thêm cay đắng, ngọt bùi, nặn thành hình tròn méo, bầu dục hay lục giác tùy tay người thợ – tôi đâu có quyền lựa chọn một nhân dáng khác – Tất cả mọi sự cố gắng xoay chuyển, đổi thay đều vô vọng … Những trận đòn “đau thế” như một lập trình có sẵn – cứ tuần tự đến rồi đi, vừa mới “ngơi” một tí, đã lại thêm người mới, nạn mới và “đòn đau thế” mới … Tôi như con chim bị nhốt trong lồng, con cá giữa nơm – có vùng vẫy đến đâu cũng chẳng thoát được nào!
* Có lần trong căn nhà mới thuê (Tháng 8/2008) bước vào w.c – Vía tôi thấy một âm vong treo cổ trên xà nhà, đầu tóc gục xuống rũ rượi! Sợ quá, tôi trụ thần trục vong … Lát sau, nhìn lại thấy vẫn còn nguyên, trục lại thêm lần nữa … vẫn còn!
Nghi ngờ, Vía tôi thấy mình cầm cây gậy vô, chọc thử vào cái xác, nó đung đưa tòn teng dưới đầu dây – thì ra chỉ là hình nộm: nó nhẹ bâng, bề ngoài trông y hệt con thú nhồi bông, có dạng người – Nổi điên, tôi cắt dây, vứt xuống đất đập cho một thôi một hồi … cái xác lem luốc tả tơi!
Chiều hôm sau, vào w.c – tôi vẫn thấy cái xác gớm ghiếc tả tơi ở đó … Suy nghĩ một lúc, tôi vứt cái xác ra ngoài sân – nơi có đống rác đang đốt! Cái xác người nhồi bông cháy lên được một phần, bất chợt trời đổ mưa, lửa tắt! Cái xác lúc nầy trông còn “kinh khủng” hơn với nửa bên người cháy xém … Vía tôi thấy mình lấy tấm tole lớn đang để dựa vào bức tường úp lên cái xác – thế là từ đó không còn thấy nó nữa!!
“Lộng giả thành chơn” là vậy … Biết giả, sao lòng vẫn cứ tin! Hay: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức – diệt phục như thị??”
* Có lần, đang nằm “lơ mơ” sắp ngủ – tôi thấy mình đi lạc giữa rừng sâu, lúc đó nắng chiều sắp tắt! Vía bảo: “Phải tìm lối ra ngay lập tức, đêm tối mà lạc giữa rừng thì chết mất!”
Đang dấn bước, chợt thấy trước mặt rừng cây chấm dứt, hiện ra một dốc đứng, phía dưới là thung lũng – có con đường mòn thoai thoải … Vừa lúc đó, tôi nghe trong đầu vọng lên tiếng cười của Ông : “À! Thì ra ông “chơi xỏ” mình đây mà, nào – thì chơi!”. Suy tính một giây, tôi lướt theo dốc đứng xuống con đường phía dưới … Vừa tới con đường, chưa kịp hoàn hồn – tôi đã thấy hai chiếc xe tải từ xa sầm sầm chạy tới – Con đường độc đạo nhỏ xíu, biết trốn vào đâu bây giờ! Ngay lập tức, tôi hóa phép ra hàng rào chặn ngang đường, làm cho hai xe tới đó gặp rào chắn phải rẽ sang đường khác …
Rồi tôi đi lang thang tìm lối về không thấy, trông xa xa phía trước có một xí nghiệp bỏ hoang với cửa rào bên ngoài chỉ khép hờ – Vừa đẩy cửa bước vào, tôi nghĩ ngay: “Xí nghiệp bỏ hoang giữa rừng chắc toàn ma với quỷ, và đủ thứ kinh khủng khác – không thể ở đây được!” … Lùi trở ra, tôi lại nghe thấy Ông cười một tiếng: mặt trời biến mất, chỉ còn bóng tối trước mặt – Tôi điên người thoắt một cái thấy mình nhảy lên giường nhập xác, cuộc phiêu lưu chấm dứt và tôi thắng!...
Vậy đó – Những đợt như thế này là ông đang “rèn thanh kiếm thép” và tôi là thanh kiếm ấy! Ông luyện cho tôi cách để ứng phó với mọi tình huống – Khi hành xử, tôi biết linh động nhạy bén để thủ thắng! Ông cũng như các Đấng không bao giờ ra mặt để giúp tôi, tôi phải tự mình “vắt kiệt óc” tìm phương cách để “giải quyết tình huống” sao cho hợp lý, hợp tình, phù hợp đạo lý làm người và Phật pháp!
Tất cả những cuộc phiêu lưu nầy, tôi thấy rõ mồn một bằng thể Vía của mình, cảm nhận lo sợ – kinh hoảng y như sự kiện thật đang xảy ra trước mắt, tim đập thình thịch trong ngực… Cuộc phiêu lưu chấm dứt vẫn chưa thấy hoàn hồn! Lúc đó, tôi phải dùng lý trí của xác trần để “thay đổi cục diện” trong lúc hoàn toàn tỉnh thức, y như một người “chơi game trực tuyến” vậy!
Đến lúc tôi thấy mình “thúc thủ” bèn dừng cuộc chơi, nhảy phóc lên giường… nhập xác!!
Tôi được rèn luyện như vậy đó – các bạn thấy, có phải rằng: “thương cho roi cho vọt” hay không ?!
* Từ ngày con trai tôi mất đã gần bốn năm, chưa lúc nào lòng tôi nguôi thương nhớ … Bữa ăn nào cũng kêu, cũng gọi về – Đêm nằm nhớ con lệ đầm ướt gối!
Hôm ấy, khi gọi con về ăn cơm, tôi thấy con đứng đó trần truồng, cái mặt nhâng nhâng như đối đầu, thách thức! Tôi hỏi thì cháu nói: “Con thích như vậy đó, Mẹ!” Đánh con không đành, tôi bỏ lên nhà trên, không nhìn nó nữa! Từ hôm ấy trở đi, thằng nhỏ vẫn về ăn cơm với bộ dạng ấy – Tôi giận, tôi ghét con, không thèm nói với nó tiếng nào! Con về ăn cơm là tôi bỏ lên nhà trên và từ ấy … tôi quên, không khóc vì con nữa!
Nghĩ lại, tôi biết là do Bề Trên làm ra vậy để tôi nguôi không còn khóc thương con … “Thuốc đắng đã tật” phải không các bạn!
* Có một chuyện, tôi kể ra ai nghe cũng lắc đầu: “ Hết ý kiến!”
Tôi nuôi một người tù ( tội phạm kinh tế) suốt hai năm rưỡi trời, từ khi chưa biết mặt mũi ra sao!
Có một người quen cho địa chỉ của tôi để G.V.Kh (tên người tù ấy) gửi thư về cho tôi xin sách báo cũ – Từ đó, cứ mỗi tháng tôi gởi lên một thùng hàng … trong ấy có hầu hết các thứ cần thiết cho một con người: thuốc men, mì gói, đường sữa, quần áo, mùng mền, lương khô … phải nói là trăm thứ! Cuộc sống trong tù (ở trại Xuyên Mộc) khó khăn và thiếu thốn muôn bề, G.V.Kh viết thư về xin tiền hoài: một triệu, năm trăm, hai ba trăm là chuyện thường … Nghe xin tới đâu, tôi vay mượn gởi cho tới đấy! Mặc dầu lúc ấy tôi vừa mới thôi chồng, nuôi ba đứa con nhỏ, nợ nần giăng mắc tứ phương ….
Mẹ Quán Âm nói: “tên G.V.Kh đó là một phần Linh căn bị đọa, con giúp cho hắn đi! Xem như làm chuyện “Phật sự” – Khi nào hắn mãn hạn tù, coi như Phật sự của con chấm dứt!
Thế là tôi “cắm đầu cắm cổ” nuôi tù, lo lắng và chăm chút y như một người vợ có chồng đi tù vậy – Lòng dặn lòng: “ngày nào ông ấy mãn hạn cũng là ngày mình hết nghiệp”
Một điều nghiệt ngã nữa: Thường xuyên chỉ vì một lý do rất nhỏ, anh ta viết thư về mắng tôi đến “vuốt mặt không kịp” – ví dụ: “Em gửi đồ cho anh mà giống như bố thí cho một thằng ăn mày ăn xin đầu đường xó chợ vậy! Gửi thuốc tây mà không có một dòng về công thức thuốc, biết làm sao mà sử dụng!” … Vậy đó – mỗi lần như vậy tôi lại giận, thề không gửi đồ cho anh ta nữa! Phật Bà lại về bảo: “Ta muốn con cố gắng giúp cho người tù ấy – Bước thử thách trên đường Đạo của con đó!”. Thế là tôi lại tiếp tục … Cứ nghĩ tới cảnh một tháng qua không nhận được “tiếp tế”, người tù ấy (và cả phòng giam) sẽ thiếu thốn và đáng thương lắm, thế là tôi lại còng lưng vay tiền góp hàng tháng mua đồ gửi lên trại!
Đến một ngày – không còn chịu đựng nỗi những lời chì chiết vô cớ, tôi viết thư lên trại bảo mình chuyển nhà về quê ở, thế là thoát nghiệp – sau hai năm rưỡi tròn!
Phật Bà hôm ấy về bảo tôi có mỗi một câu: “Con mới học được có một nửa chữ “Nhẫn”!
Người ở tù đã mãn hạn, có lên nhà tôi thăm một lần rồi thôi – như không hề quen biết! Phần tôi cũng quên không nhớ mình đã từng biết một người như thế trong đời …
* Điển Ông bảo tôi viết lại hồi ký hai mươi ba năm qua, để lưu lại và truyền cho mọi người cùng đọc, xem như một bước “Hoằng Pháp” – Tôi nằn nì xin Ông cho tôi nghỉ chữa bệnh – nghỉ hẳn! Xem như “về hưu” sớm – Có vậy mới tĩnh tâm mà viết, bận suốt ngày thì làm được gì!
Mẹ Quán Âm và Mẹ Diêu Trì không cho, phần Điển Ông thì bảo: Mẹ nói gì cứ im nghe đừng cãi – Để rồi ông thu xếp cho tôi, ông hứa!
Thực vậy! Từ ngày bắt đầu cầm bút viết, bệnh nhân vãn dần, mỗi ngày còn chỉ độ mươi người, đa số là chữa qua điện thoại, không làm mất nhiều thời gian của tôi nữa…
Mỗi khi viết – Ông nhập thần vào tâm thức tôi để giúp tôi nhớ lại những tình tiết của những vụ việc đã qua (Hai mươi năm rồi còn gì) Lúc ấy đầu tôi căng lên như sắp vỡ, chóng mặt như người đang say sóng, viết xong buông bút – mãi còn nghe bần thần khó chịu trong người!
Bệnh nhân không có, tôi phải chịu hành kiểu khác: ba ngón tay cầm bút ( nhất là ngón cái) cứ đau thắt từng cơn, phù nề và căng cứng, cảm giác vừa đau vừa tức thực là khó chịu!
Đôi vai và cột sống cũng đau liên tục … tôi cứ ngồi đấy lì lợm, bậm môi mà viết – viết xong phải dựa tường mới đứng lên được, bước đi “cà nhắc” vì đau cứng khớp … Cực hình nầy nào có thua gì “chịu đau thế” cho người khác!
Dạo đó – tôi mơ một giấc mơ “Điển ứng” như sau: Tôi thấy có hai người một Nam một Nữ từ Mỹ về, thuê tôi viết một tập tài liệu gì đó để trình lên cấp trên! Tôi vừa viết vừa làm giúp các việc lặt vặt trong nhà, vì nhà ấy neo đơn, chỉ có hai ông bà lão chừng độ tám mươi.
Hôm ấy viết xong, người Nam chuẩn bị đem tập tài liệu ấy đi nộp trình lên trên, ông chỉ mặc một chiếc áo cũ kỹ – Tôi ngăn lại, lấy bộ đồ veston cho ông mặc! Xong mọi việc, tôi ra về – ngang qua phòng khách thấy ông cụ chủ nhà, ông gọi tôi lại móc túi cho một tờ năm trăm ngàn mới nguyên – nói: “Ông cho con, về để dành mà chi dụng!” Tôi không chịu, bảo: “con đã nhận tiền công rồi, con không lấy nữa đâu” … Cụ Bà bước ra, đứng sau lưng bóp vai ông, bảo: “Ông cho thì cứ nhận cho ông vui, đừng trả lại ông buồn!” Tôi cảm ơn, đút tờ tiền vào túi, về nhà lấy ra – tờ tiền ấy hóa ra một túi đầy tiền …
Tỉnh dậy – tôi nghiệm ra từ giấc mơ: Hai người nam nữ là con từ Mỹ về – chắc Ngài Thích Ca và Quán Thế Âm Bồ Tát! Ông Bà Cụ là Ngọc Đế và Mẹ Diêu Trì, tài liệu giải trình chắc chắn là Huyền Môn Lược Ký rồi!
Đem thắc mắc của mình ra hỏi ông: “Địa Mẫu và nhà Phật, ai lớn hơn?” Ông bảo: “Ngọc Đế và Mẹ Diêu Trì lớn hơn. Không nghe Kinh Phật gọi “Cung trời Đạo Lợi, cung trời Đâu Suất” đó sao! Cõi Phật ở trong cõi trời, Cha Trời Mẹ Đất hóa sanh ra con người, con người có tu mới thành Phật”
Hèn nào xưa nay nghe Ông luôn gọi: “Mẹ Diêu Trì” bằng sự cung kính! Đó là nói với tôi – Khi Mẹ về, ông gọi: “Bà Diêu Trì” và xưng là “ta”!
Trên cho nghỉ chữa bệnh một thời gian, để viết Huyền Môn Lược Ký – lạ một điều là ngày nào tôi viết, ngày ấy không có bệnh nhân! Hôm nào tôi không viết, người bệnh lại kéo tới – Rõ ràng việc bệnh nhân có hay không, nhiều hay ít là do bề Trên sắp xếp! Sau khi hoàn tất tập một, tôi tự nhủ: “Nghỉ một thời gian “xả hơi” đã rồi lại viết tiếp”
Thế là bệnh nhân lại kéo đến, tôi lại bị đòn y như cũ … Cho rằng Ông gạt tôi và không giữ lời hứa của mình, tôi nhất định không đưa Huyền Môn Lược Ký đi trình để xin cấp Giấy phép xuất bản và tôi dọa với ông: “Nếu không cho tôi nghỉ chữa bệnh tôi sẽ đốt bỏ Huyền Môn Lược Ký! Ông chẳng nói chẳng rằng – May là bản thảo sách đang ở trong tay một người bạn, nếu không thì tôi đã đốt mất rồi! Mẹ Diêu Trì về thúc hối nhiều lần, tôi vẫn bướng bỉnh không nghe!
Thực tế – tôi sợ Mẹ lắm, đâu dám cãi lời. Nhưng tôi nghĩ: “Nếu không dựa vào dịp nầy, chắc vĩnh cửu mình không trốn nghiệp được – Sách xuất bản ra, người ta kéo tới càng nhiều hơn … chắc chết! Thôi thì nhất định “án binh bất động” tới cùng, rồi Mẹ cũng chuyển ý thôi!”
Tôi còn nằn nì “ra điều kiện” với Mẹ Quán Thế Âm: “xin Mẹ cho con bán nhà, mua một căn nhà khác nhỏ hơn để dư ra ít tiền mà sống! Rồi con sẽ về ở sau bốn vòng tường đến mãn đời, không bước ra ngoài xã hội nữa! …” Điều gì xảy ra, các bạn biết không! – Tôi bị một trận đòn thê thảm nhất trong vòng hai mươi ba năm nay, đưa tất cả bao nhiêu công khó dìm xuống bùn nhơ! Trong vòng chín tháng ( từ tháng giêng/2009 đến hết tháng 9) – Tôi kể lần lượt từng đợt một cho các bạn nghe nhé!
* Nguyên cháu KH (Người đã kể trong Huyền Môn Lược Ký I) mồ côi Mẹ, theo tôi từ lúc mười bốn, mười lăm tuổi đến giờ! Tôi rầy dạy từng lời ăn tiếng nói – Sau lấy chồng khác đạo, lại là gia đình trí thức, nhà cậu V không ai bằng lòng cô Kh (vì không còn cha mẹ, lại xuất thân từ gia đình quê nghèo, ít học)! Vì vậy, mặc dù được chồng thương yêu, chăm sóc nhưng bản tính của người chồng gia trưởng độc đoán – Gia đình bên chồng lại khó, cô Kh lấy chồng mười năm, đã nhiều lần không chịu đựng nổi đòi ly hôn ….
Tôi hết lòng can gián, khuyên nhủ – Kh xem tôi như người Mẹ nuôi – nghe lời tôi khuyên lại trở về sống tiếp cùng chồng!
Phần tôi – đã dùng hết tâm huyết của mình để hỗ trợ, xoay chuyển giúp hai vợ chồng vượt qua hoạn nạn, để mỗi ngày một ổn định hơn …
Hai vợ chồng Kh hiện nay đầy đủ, khấm khá và hạnh phúc – Rồi cô Kh theo tôi học Nhân Điện phát sinh lòng mộ Đạo, đêm về hay đọc Kinh, ngày Vía lại ăn chay … Mâu thuẫn phát sinh từ đó!
Do bị dồn nén cảm xúc, bị stress và suy nhược thần kinh, sau một lần vợ chồng cãi nhau rất dữ dội, độ chừng một tháng thì cô Kh bị “bệnh tâm thần” – đưa đi bệnh viện chữa không có tác dụng gì, lại đem về … Những ngày ấy, tôi thật khổ! Chồng cô Kh gọi điện suốt ngày cho tôi, trời nắng giữa trưa bất kể, tôi đạp xe ba cây số tới nhà – vừa chữa bệnh vừa an ủi, tôi về cô Kh lại “lên cơn” tiếp!
Tôi nhờ anh Ch (Huynh trưởng Nhân Điện) đến hỗ trợ, nghe Mẹ cậu V nói sao không biết, anh Ch triệt bàn thờ Phật Bà của Kh! Phần tôi, tôi nói với cậu V (chồng Kh): “Kh nó bị suy nhược thần kinh – từ nhỏ cứ đi nằm bệnh viện hoài! Nếu vợ chồng muốn sống hạnh phúc với nhau thì cậu đừng dồn ép, tra tấn tinh thần nó kiểu như vậy nữa. Nó có bề nào, ra trước tòa tôi sẽ khai hết mọi chuyện thì cậu sẽ bị câu lưu vì tội “bạo hành phụ nữ” đó!”
Câu nói của tôi đã hại chính mình, gia đình cậu V sợ quá – ra sức đổ tội cho tôi! Họ cho người trong nhà đi rêu rao khắp vùng dưới chợ Hiệp Thành lên đến nhà tôi trên nầy, bảo : “Cô Lan làm thầy bùa thầy ngải, bỏ ngải cho Kh mê, lấy hết tiền của trong nhà đem cho – còn đưa ngải cho Kh về bỏ cho mẹ chồng và chị chồng để lấy tiền đem cho cô Lan nữa”
Trong khi Kh đang lên cơn tâm thần, bỏ nhà đi lang thang thì họ đến khu nhà tôi ở … Cậu V bồng con nhỏ đi rêu rao khắp nơi, với luận điệu mà họ đã dựng lên! Ngày nào cũng có hai, ba người tới vây cửa nhà tôi, hăm rằng hễ thấy Kh tới đây họ sẽ la lên, cho cả xóm tới trông thấy và làm nhục tôi! Cậu V tới cửa nhà tôi đứng chặn ngay giữa cửa, mặt đầy “sát khí” … Hai mẹ con tôi chui trốn trong nhà, không dám lên tiếng nói …
Cô Kh trong cơn tâm thần, tận cùng tâm thức vẫn thấy chỉ có cô là nơi chốn hướng về để mong được ủi an, che chở – lại tìm đến nhà tôi, tôi khóa kín cửa rào, cô cháu kẻ trong người ngoài khóc ngất! … Một thời gian sau, cô Kh tỉnh dần, đưa đơn ra tòa ly hôn với chồng! Chồng cô Kh dụ đưa vợ ra tận Long Thành Bà Rịa chuộc bùa, Tòa vừa ký đơn cho ly hôn xong, cô Kh nghe lời chồng xóa quyết định ly hôn!
Mọi việc xảy ra và kết thúc trong vòng ba tháng, tôi bị “tra tấn tinh thần” suốt ba tháng, chín mươi ngày … xem như “ô danh xủ tiết” một đời – hai mươi ba năm hành Đạo, nghiệp quả lãnh thế nầy đây!
Về sau mọi chuyện cũng nguôi khuây, tôi “cấm cửa” cháu Kh không cho tới nhà nữa, và từ ấy có thói quen khóa kín cửa rào, không ai dễ dàng bước vào nhà tôi như trước!
Nghe đâu cô Kh kể là chồng đưa đi rất xa để chuộc bùa, ông thầy lấy roi dâu đánh đau lắm. Tội nghiệp! Ai bảo không chịu theo Đạo chồng. Không cam phận sống một đời sống bình thường như bao người khác …
Đời vốn nghịch thường như vậy: người ta đổ tội cho tôi là bỏ ngải, là dùng tà phép … Để rồi người ta đưa vợ đi chuộc bùa, chuộc phép! Người ta có thể hại tôi đến “thất điên bát đảo” quên mất bao nhiêu năm tháng đã qua, mỗi chút trắc trở khó khăn hoạn nạn đều đến cầu cứu ở cô Lan, và chính từ tấm lòng của cô Lan mà họ được như ngày hôm nay … Có trời biết điều gì sẽ xảy ra nếu hai vợ chồng Kh còn ở trong căn nhà cũ, căn nhà mà hoạn nạn và xui rủi như cơm bữa ấy … Và liệu có một lúc nào đó, quay nhìn lại đời mình, cậu V có một chút ân hận vì đã “trả nghĩa” cho tôi như vậy không nhỉ!
* Một buổi chiều nọ, cô Tiến ở kế bên sang nhà tôi, hai chị em đứng ở cửa rào nói chuyện một chút, xong vào nhà, độ chừng mười phút sau trở ra tôi phát hiện một con cóc chết thật to nằm ngay giữa cổng rào, nơi hai chị em vừa đứng nói chuyện tức thì … xem xét lại, tôi thấy con cóc đã chết từ lâu, đang trương phình lên, như có ai đó vừa lén mang đến đặt ở đấy, nơi hai chị em tôi đứng nói chuyện suốt mười phút mà không thấy!
Tự nhiên trong tôi dâng lên một cảm giác lo sợ, bất an … Kể từ hôm ấy trở đi, chuyện xui rủi như cơm bữa, mỗi ngày qua đều có chuyện bất thường nào đó làm tôi khóc đến hai ba lần – đa số đều là chuyện thị phi, “lộng giả thành chân”. Suốt hai tháng trời đều như vậy … Mỗi ngày!! Tôi vốn không mê tín, vậy mà mỗi khi nhớ đến chuyện ấy, còn thấy rùng mình kinh sợ!
* Sau chuyện cô Kh, sau những tháng ngày khóc hết nước mắt: Khóc cả ngày, khóc cả đêm! Bề Trên quay lưng - im lặng, Điển Ông cũng chẳng thèm lên tiếng … chẳng ai cứu được tôi, chẳng ai để tâm xem tôi đang phải chịu đựng những gì, đòn trừng phạt cứ giáng xuống!!
Làm sao để rửa được nỗi oan nầy? Suy nghĩ mãi, tôi chấp nhận chuyển Huyền Môn Lược Ký tới Trung tâm Phát triển tiềm năng con người Hà Nội: “Chỉ có sự công nhận của Cơ quan chức trách nhà nước mới cứu được sự ô danh của mình” Tôi nghĩ thế!
Về sau – Điển Ông bảo tôi bị đòn nặng nề như vậy là do cãi lời bề Trên, không chịu ra mắt Huyền Môn Lược Ký … Quyển sách vẫn đi đúng con đường của nó, cho dù tôi không muốn. Còn tôi - những nhơ bợn trong đời biết trút vào đâu?!
* Chị M.H (là học viên Nhân Điện). Chồng chị trước là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 28.
Ngày xưa anh bị thương ngay cột sống, giờ bị đau nhức tê bại đoạn thắt lưng trở xuống, liên tục phải điều trị bệnh viện 175 – bác sĩ Cự giới thiệu anh vào tôi, chữa cũng chỉ là đỡ giấc vậy thôi, không hết hẳn được …
Lần đầu tiên tới nhà, tôi đã thấy anh bị vây bởi rất nhiều vong hồn chiến sĩ (quân Cách Mạng) – Hỏi thì họ bảo: “Chúng tôi là lính của ông ấy”. Tôi hỏi anh: “ngày trước anh làm nghề gì” Đáp: “Giám đốc công ty Cao su” – “Trước nữa” anh đáp: “Tiểu đoàn trưởng” - : “Hèn nào thấy vây chung quanh anh nhiều lính, họ khai là lính của anh”.
Anh T nói: “Tôi có giết hại ai đâu mà theo phá tôi” – Điển nhập về, giải thích: “cho dù anh không trực tiếp giết người, nhưng chính anh là người ký lệnh hành quân, lính ra trận bị chết anh là người chịu trách nhiệm! Họ chết trận đa số là chết oan, nên giờ họ theo níu anh – Khi anh còn khỏe mạnh họ không làm gì được, đến lúc anh đau bệnh, họ theo phá làm cho anh đau đớn nhiều hơn.”
Sau một thời gian – đau bệnh vẫn cứ tăng rồi giảm, anh T không tới tôi nữa – bảo: “cô Lan người không thấy, thấy ma không hà!”
Chị M.H – vợ của anh thì rất tin, đã theo học Nhân Điện … Hiện nay chị đã học đến lớp 19, người mộ Đạo, phát triển tâm linh cao, thường xuyên đi Chùa, trì niệm và chay tịnh!
Những người học Nhân Điện – một thời gian sau ( độ từ khoảng lớp 11, 12 trở đi) dần dần đều trở nên trẻ trung, xinh đẹp hơn, da dẻ mịn màng hồng hào ra … Năng lượng vũ trụ chuyển luân trong toàn cơ thể là tố chất dưỡng nuôi, chuyển hóa làm cho ta ăn ít hơn mà vẫn khỏe mạnh, không thiếu dưỡng chất!
Chị MH – từ  một người đàn bà lầm lụi, buồn rầu và khổ sở, ăn mặc tạm bợ tùy tiện (vì vất vả nuôi chồng thường xuyên đau bệnh) trở nên một phụ nữ hồng hào, xinh đẹp, trẻ hẳn ra … Thích quá, chị bắt đầu chỉnh chu lại quần áo, trang phục – Ra người phụ nữ trung niên “hấp dẫn”!
Người chồng đau bệnh bắt đầu “nổi cơn ghen” nghi vợ mình ra ngoài có tình riêng nên mới yêu đời và tươi trẻ thế kia! Nghe ai xui không biết ông mời “bà Thầy” nào đó tới nhà án bùa chú, xem quẻ và phán bảo linh tinh đủ chuyện …
Rồi ông tuyên bố: “Cô Lan mai mối cho bà, bây giờ bà có nhân tình ở xã Thới Tam Thôn, mua đất và cất nhà ở đó. Bà nói cho cô Lan biết, tôi sẽ làm đơn kiện cổ, cổ ra tòa mà đối chất với tôi”.
Chị MH sợ quá, bảo tôi: “Cô đừng điện ra nhà chị nữa, rủi mà gặp ông ấy, ông chửi cô bất tử thì tội lắm”.
Giờ – Chị em muốn thăm hỏi nhau, tôi phải nhờ người điện trước cho đến lúc gặp chị thì mới dám lên tiếng… Thêm một cú “đá giò lái” đau ơi là đau! Làm tôi mất ăn mất ngủ hết bao ngày.
* Cô T (học viên Nhân Điện) nhà ở kề bên tôi, (Người đã kể ở tập I) Ngày trước ốm yếu, xanh xao … Từ ngày học Nhân Điện đến nay trở nên tròn trịa, hồng hào xinh đẹp! Cô T cũng phát sinh tâm Đạo, thích đi Chùa, niệm Phật nghe Kinh và ăn chay các ngày lễ, Vía Phật …
T chữa bệnh tốt lắm, vào xí nghiệp (nơi cô làm việc) T chữa bệnh cho nhiều người – Tiếng đồn lan tới tai chồng cô, lúc đó đang làm Trưởng ca ở đấy! Người chồng về nhà cấm không cho T chữa bệnh nữa, dẹp cả đầu máy không cho nghe Kinh pháp … Từ đó sinh lòng ác cảm với tôi! Cô T thì để cho “vẹn cả đôi đường” – khi chồng đi làm mới dám sang nhà tôi, đi Chùa, đọc Kinh hay chữa bệnh cũng phải dấu chồng!
Đến một ngày ( Tháng 4/2009) cháu Minh (Học viên Nhân Điện) lên nhà mách với tôi: chồng cô T về dưới Hiệp Thành (nơi mẹ và các em tôi đang ở) vẽ chuyện nói cô T qua nhà của tôi để “tò tí” với Minh ( nguyên văn lời kể). Cô T nghe vậy ức quá về hỏi lại chồng! Người chồng làm lớn chuyện, nửa đêm chửi đổng miệt thị tôi vang cả xóm … Xong lại về dưới Hiệp Thành đòi hỏi đối chứng nầy nọ lung tung, rồi lân la phân trần với hàng xóm láng giềng … Câu chuyện kéo dài độ ba bốn ngày – Dẫn đến sự tuyệt giao giữa tôi và chồng cô T, hai người ở sát vách nhà nhau!
Thì ra cậu V (chồng cô Kh) đã đưa số điện thoại, nhờ cậu T báo cho biết nếu thấy Kh lên nhà tôi! Cậu T bảo: Cô Kh vì nghe lời tôi mà bị tôi bỏ ngải đến tâm thần, ly dị chồng – Cậu T sợ cô T theo tôi rồi cũng bị điên như vậy!
Qua hai vụ việc liên tục xảy ra, tôi bị mẹ và các em lên án thậm tệ – Dẫn đến chỗ tôi sinh ra phẫn uất, từ mẹ và cô em gái kế của mình …
Chuyện qua đã lâu rồi, giờ viết lại vẫn còn nghe như muối xát kim châm -  rõ là “lòng đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Nỗi oan này ai thấu, buồn hận lấy gì đong! Chỉ vì không tuân theo ý muốn của bề Trên, tôi bị đòn đau đến vậy!
Vẫn còn một chuyện nữa, tôi xin phép kể nốt cho trọn kiếp trần ai … mấy việc kéo dài ra, dàn trải trong suốt chín tháng trời ròng rã – từng ngày từng giờ vắt kiệt lực, dìm tôi xuống tận đáy của sự lo sợ, bất an, đớn đau và tủi nhục.
Tôi là kẻ cô thế giữa cuộc đời này – không lấy một điểm tựa, chẳng có ai che chở dìu đỡ … Bước xiêu ngã một mình, giông tố loạn cuồng chẳng biết tránh vào đâu. Nhút nhát, rụt rè đến nỗi lúc nửa đêm, trong căn nhà vắng – chỉ một tiếng động khẽ ngoài sân cũng nghe như tim ngừng đập – Một con gián, con thạch sùng hay chú chuột nhắt chạy qua cũng “hồn phi phách tán” mất rồi!
Vậy mà bề Trên giao cho một trách nhiệm trọng đại đến thế … Kể cũng lạ! Cây “Thượng phương bảo kiếm” vào tay một con cừu đội lốt cọp suốt mấy mươi năm chưa chán … Cái gánh nặng quá sức ấy choàng lên vai, khiến tôi cứ rùn xuống, chịu đựng, như một kẻ bị lưu đày suốt kiếp – chẳng biết bao giờ mới mãn hạn!
* Cô H ( là học viên Nhân Điện) – Suốt ba năm từ lúc bắt đầu dạy cho H học cách chữa bệnh và khai mở Luân xa – Tôi vẫn có một nỗi lo lắng mơ hồ, mãi chẳng nguôi khuây …
Biết trong cô còn nhiều tà khí, thầy chỉ cho cô H lên đến lớp mười lăm rồi thôi – vài lần tôi và H xin, thầy cứ dần dà, chưa chuẩn!
Một ngày – nhà tôi nấu cơm cúng rằm, chị em tụ nhau về … H đứng bếp nấu món ăn xong, chiều ấy mọi người về cả, tôi mới hay bếp gas bị hư – mua bếp gas mới mất bốn trăm ngàn!
Lần nữa – H lên nhà nhận Điện (mỗi tuần vào ngày chủ nhật, chị em Nhân Điện nhánh của chúng tôi tập trung ở nhà tôi để nhận Điện thầy) – trong đó có năm anh chị từ phía của câu lạc bộ Tiềm năng Sài gòn lên học! Các anh chị mới vào lớp sau, tài liệu theo cấp lớp của tôi lưu lạc đâu mất tìm mãi không ra …
Tôi điện cho A Ch (Huynh trưởng) hỏi! A. Ch bảo H có, bảo H đưa cho mượn – Đang lúc bấn lên tôi trách: “con đó! trong lúc cô chạy tìm mãi không ra, con có tài liệu mà không cho cô mượn” – Cô H phân trần một hồi … xảy đến việc cô Hà (học viên Nhân Điện) cầm điện thoại di động của tôi mở ra xem, cô H ngồi đối diện ngước nhìn … tự dưng cô Hà phát hiện ra thẻ nhớ của điện thoại bị xóa trắng, mất tất cả – không còn một dữ liệu nào!
Ngay buổi chiều hôm ấy, tôi bị “tà đánh” – nằm nghỉ trưa độ hơn nửa tiếng, tôi ngồi dậy đã thấy cả người nhừ nhẫn, đầu đau như búa bổ … Đứng lên soi gương chải tóc, tự dưng sau lưng nghe “rầm” một tiếng lớn, chiếc quạt máy đang quay bị gãy cánh quạt, văng tứ tung! Nhìn lại, tôi thấy lạ – vì cánh quạt không bị sút ra, hai vòng nhựa xiết bên trong và bên ngoài hãy còn nguyên, cánh quạt tôi mới mua chưa đầy hai tháng bị gãy nát làm ba miếng, văng tứ tung trong nhà …
Lát sau, tôi đang cầm chiếc bình hoa trong tay, nghe có ai đó hất vào tay một cái, bình hoa rơi vỡ tan tành!
Tối đêm đó – tôi bị dị ứng, khắp cả người nổi lên từng dề màu đỏ hồng, nổi gồ lên khỏi da, ngứa dữ. Khi bề mặt của da bị dị ứng gần hết thì tôi bị bế tim phổi và khó thở. Bị suốt ba ngày, ba đêm như vậy – thuốc uống vào chẳng có tác dụng gì … Đến chiều ngày thứ ba, tôi sinh nghi, thắp hương trên bàn thờ Phật để xin Điển trên về hỏi cho ra lẽ!
Ngay lúc đó, Cô T chạy sang nói : “Em bị tà đánh hai ngày nay, xin Điển bắt ra mười ba Binh Gia… Em bắt họ dẫn về nhà Chủ, họ đưa đi loanh quanh một hồi vào một căn nhà nhỏ nằm sau một khoảng đất rộng. Em xin cho gặp Chủ thì thấy .. Chị H – sao lạ quá, chị hỏi lại Điển xem sao, em đâu có làm gì cho H ghét, sao H lại đánh em!”
Tôi điều tra lại, phần tôi bị đánh cũng do cô H … Có lẽ ức vì bị tôi rầy H giữa tập thể nên mới cho binh phép đánh tôi! Còn cô T? Hôm chủ nhật ấy cô T không có mặt, tại sao bị đánh? Suy nghĩ lại, tôi vỡ lẽ: “À! Bởi vì cô T là người học lớp cao nhất trong tất cả chị em!”
Sang ngày hôm sau, cháu Minh lại chạy sang tôi: “Cô xem dùm con coi có phải bị tà đánh hay không mà bị đau nhừ hai ngày nay rồi” – Tôi hết xin Điển về ứng báo, lại sử dụng quả lắc Nhân Điện, kết quả cũng đều báo là Minh bị cô H cho binh đánh! Sau khi giải binh, cô T và cháu Minh hết ngay, còn tôi sau ba ngày bị dị ứng dồn dập rồi cũng hết!
Nhớ câu nói người xưa: “Đạo cao một tấc, tà cao một trượng” – Tôi bắt đầu rùng mình, lo sợ. Cô H vốn là học trò của mình, ra vào nhà như người thân … H mà dùng tà phép thư ếm thì mình chết mất. Lại nhớ ngày xưa thỉnh thoảng có đọc truyện “kiếm hiệp” – nghe kể những người là “phản đồ”, quay lại hại chết chính sư phụ của mình … Người thầy chết oan vì tin lầm kẻ dữ!
Ngặt nỗi chuyện tà phép là chuyện không thể “thực mục sở thị” – Cô H bề ngoài vẫn ngoan ngoãn, thơn thớt nói cười… Lấy gì bắt tội được cổ!
Ngay hôm sau – cô Lan (học viên Nhân Điện) kể với tôi một chuyện: “Chị H điện lên em, hỏi số điện thoại của cô NT, còn dặn là đừng nói lại cho cô Lan biết! H kể: “Cô Lan xuống chợ Hiệp Thành nói xấu tôi – nói là tôi đi theo năn nỉ cô Năm để xin tiền và cô Năm cho tôi năm triệu! Chồng tôi nghe vậy về đánh tôi … Tôi muốn điện cho cô NT để hỏi cho ra lẽ”
Lan nghe nói thấy chuyện quan trọng, không dám dấu, phải nói với tôi để tôi tìm cách xử lý.
Tôi nghe qua cũng ngẩn ngơ – vì mình chưa hề biết hay nghe chuyện nầy bao giờ … Sau này xâu chuỗi lại các sự việc, tôi mới biết lúc ấy H đang tìm số điện thoại của những chị em Nhân Điện học lớp cao để đưa tà phép đánh. Chiều ấy cô Lan không trúng đòn, không bị gì là do tôi vừa xin phép Thầy Tổ và các Đấng “khóa Luân xa” của cô H!
Khi điều tra sự việc, biết do chính tay H đưa tà phép đánh tôi, cô T và cháu Minh. Để đề phòng – tôi đã xin phép “khóa Luân xa” của H lại… Đây cũng chỉ là phương cách tạm thời – vì cô H rất cao tay, trên H còn có Thầy tổ, Nghiệp tổ, có Âm căn nữa!
Buổi trưa tôi vừa khóa luân xa, chiều tối H điện thoại cho Lan đưa phép đánh – vì vậy mà Lan không bị “trúng đòn” … Hai ngày liên tiếp, tôi vẫn bị đánh “nhừ tử” – ngạc nhiên quá, chẳng lẽ mình điều tra sai, kết tội oan cho H? Luân xa đã bị khóa, bàn tay phép bị phá luôn rồi, H không thể đánh mình được nữa – Thế thì ai? Cả cô T cũng bị y như tôi!
Tôi xin Điển cho kiểm tra lại, mời ra một ông Đạo sĩ mặc áo chùng oai vệ, ra vẻ một bậc lão ông “đạo cao đức trọng”. Ông xác nhận đã đánh tôi, vì tội hiếp đáp đệ tử của ông là cô H … Tôi kiên nhẫn trình bày với ông mọi chuyện và kết: “Nếu ngài có một người đệ tử mà mình đã hết lòng truyền dạy không công, giờ trở lại hại mình như vậy – Ngài sẽ xử trí thế nào, thưa Ngài!”. Lão ông ấy không nói gì, đứng dậy ra đi. Tôi gọi lại: “Ông đi đâu vậy, thưa ông”, đáp: “Tôi về trừng phạt con H” – :“Ông giải phép giúp dùm chị em chúng tôi với”. Ông quay lại, phẩy tay một cái - tôi và cô T hết đau ngay tức thì!
Phải công nhận là tà phép đáng sợ thật. Chị em chúng tôi chưa từng đưa phép đánh ai bao giờ, nếu có chắc cũng không làm được vậy.
Hôm sau nữa – tôi điện gọi cô H lên nhà, nhờ T sang làm chứng. Khi tôi hỏi, H kể chuyện vòng vo – một câu chuyện ai nghe qua cũng cho là vô lý. H kể: “Chồng con vào một quán nào đó ở chợ Hiệp Thành uống cà phê, gặp một người thanh niên lạ mặt tới nói: “Anh có phúc trúng số độc đắc rồi. Vợ anh vừa xin được của bà tỷ phú (Người lên nhà cô Lan chữa bệnh) năm triệu – Chồng con nghe vậy về nhà đánh mắng con”. Tôi hỏi: “Người nói là ai?” – Đáp: “Người không quen biết”. Hỏi: “Họ làm sao biết chuyện?” Hương lại kể: “Sáng hôm sau con ra chợ bán rau, ông ấy lại tới chỉ mặt con mà bảo: “Cô không biết giữ sĩ diện của mình, đi xin tiền người khác. Vợ tôi lên nhà cô Lan chữa bệnh (mà cô Lan chữa đâu có hết – Giờ tôi đưa vợ đi nằm bệnh viện rồi). Chính cô Lan kể với vợ chồng tôi là cô năn nỉ xin tiền bà tỷ phú, bà ấy cho cô năm triệu”.
Trước mặt H tôi điện cho mời chồng cô lên đối chứng, chồng H chối bảo là mình không có nói như vậy, và xin lỗi tôi …
H nói: “Mấy hôm nay con bị bế luân xa, thiền không nhận được điện, con đang buồn nên cũng không nhờ cô khai thông lại cho con”. Nghe H nói, tôi mới biết  mình đã khóa luân xa được rồi, nhờ vậy mà H không đánh được Lan và chị NT.
Thấy cũng cần cho cô bé kiêu ngạo nầy một bài học, tôi nói: “Con là học trò của cô, con không thể ngồi ngang hàng với cô. Cô là cô của con, cô cũng không xuống ngồi ngang với con, có phải không? Thế mà con đã bao lần nói những điều sai oan cho cô – Điển báo cho cô biết tất! Nhưng cô vẫn tha thứ cho con, mong con biết “cải tà quy chính”, cô đã hết lòng khuyên con rồi, giờ đến chuyện này – những điều đơm đặt cô không hề biết mà con cũng gán được cho cô là sao? Thôi từ nay cứ ở nhà mà luyện Điện, đừng lên đây nữa …”
Sau khi H về, tôi vào giường nằm nghỉ trưa hơn nửa giờ, thức dậy phát hiện ra ở hai bên bắp vế chân nổi lên từng dề như bệnh zonar (giời leo) – nóng, đỏ và rát. Chữa liên tục mỗi ngày ba lần, cầm cự bệnh không tăng nhưng vẫn không chịu hết – tôi sanh nghi, nhờ cô T qua xin Điển hỏi, thì ra bị cô H bỏ ngải.
Chúng tôi không chủ quan khi xét việc, vấn đề nào quan trọng tôi nhờ hai hoặc ba chị em tự xin Điển về hỏi, xong đối chứng lại lấy kết quả chung.
Là người hành xử, nghi ngờ oan hoặc xét sai việc dẫn đến xử oan, tội nầy không phải nhỏ. Chuyện Cô H, tôi đã nhờ ba, bốn chị em – kết quả đều chính xác như nhau!
Một tháng sau, H mang lên một túi trái cây cúng Phật ngày rằm và xin lỗi tôi. Tôi cũng không chấp nhặt gì, ngồi nói chuyện cùng H gần một giờ, khi vào nghỉ trưa một lúc thức dậy – tôi thấy những vết zona ở hai bên bắp chân lại mưng lên như cũ. (Vốn đã hết từ lâu, không còn chứng tích). Không còn nghi ngờ gì, tôi đành điện cho H nói thẳng: “Con đừng lên nhà cô nữa. Con lên cô bị tà đánh hoài cô chết mất. Cô còn nhiều chuyện phải làm, đau đớn vầy cô sẽ không làm được gì, tội cho bao người bệnh còn đang chờ cô kia”… Có thế – Tôi mới thoát được H!
Những chuyện thị phi kéo dài trong suốt chín tháng tròn, liên tục mỗi ngày … Chín tháng nỗi đau dài tưởng chừng bằng cả một đời người!
Rồi dâu bể cũng qua – Sóng lặng bể yên, mặt trời hồng rạng tỏ. Còn lại nỗi đau của cát, bị gót chân đời vùi dập tận lòng sâu. ..
Huyền Môn Lược Ký được công nhận! Thiếu tướng Nguyễn Chu Phác (Chủ nhiệm bộ môn Cận Tâm Lý – Trung tâm phát triển Tiềm năng con người Hà Nội) điện vào cho Câu lạc bộ tiềm năng Hồ Chí Minh, nhờ anh Nguyễn Tư ( là phó chủ nhiệm phụ trách ở phía Nam) liên hệ tiếp xúc với tôi …
+ Anh Tư đưa người của trung tâm Tiềm năng Hà Nội vào “thực nghiệm”.
+ Anh Tư giới thiệu nhiều người đến nhà tôi, kết quả đáng khích lệ!
+ Ngày Ông Nguyễn Chu Phác gọi tôi ra Hà Nội họp Đại Hội Tiềm Năng của cả nước, tôi … trốn!
+ Ngày 20 tháng 9/2009 Hội thảo Khoa Học về Tâm Linh toàn nước, tổ chức tại hội trường Viện Bảo Tàng Quân Khu 7, Tôi đã được vinh hạnh nhận giấy mời do Giám Đốc Đào Vọng Đức và Thiếu tướng Nguyễn Chu Phác ký.
+ Bài Tham Luận của tôi được Trung tâm đánh giá là một trong bốn bài “có chất lượng” trong buổi hội thảo.
+ Tôi được câu lạc bộ Tiềm năng Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị quay phim – nhưng tôi cũng … trốn.
+ Ông Chu Phác bảo: Huyền Môn Lược Ký nên để sang năm 2010, có điều kiện mới xuất bản được. Nghị quyết 27 của Đại hội Đảng trong năm 2009 không được xuất bản các loại sách về tâm linh …
Đại khái là như vậy! “Cá vượt vũ môn” hóa …cá - Tôi trốn biệt, đâu dám chường mặt ra đám đông.
Mấy chục năm trời làm ngọn cỏ vô danh nay cho dẫu “thấm nhuần ơn mưa móc” – vẫn chẳng thể hóa thành đại thụ … càng muốn lặn sâu, trốn kỹ hơn vì sợ … trúng phải gió độc của Tà môn!
Úp mở một tí cho câu chuyện thêm phần hứng thú, tôi sẽ trình với các bạn đọc bài Tham luận tại buổi Hội thảo Khoa Học ngày 20/09 ở …. “tập 3 Huyền Môn Lược Ký!”
yle? �(r i �> ��? .5pt;text-align:justify;mso-pagination: none'>Ông trời – ông thử xuống đây

Thế trần lầy lội đêm ngày chẳng vơi
Ông mà đứng được, thời tôi
Nguyện xin kiếp kiếp luân hồi chẳng sai!

... Ngày mai hết một kiếp người
Tôi đây nhất quyết lên trời mà than
Các người áo mão xênh xang
Làm mưa làm gió – sai oan kể gì!
Trần ai khổ nạn sầu bi
Tai ngơ mắt lấp, sá gì Hóa Công?!

1 giờ sáng ngày 16/10/2009




VỌNG CẦU

Khi Thượng Đế không đứng về phía bạn
Một mình – nương cậy vào ai?!
Con thuyền NOÊ cũng đắm
Còn trơ một vọng hải đài

Ta nghe linh hồn than khóc
Âm vang rờn rợn thịt da
Tê điếng giữa làn môi nhạt
Ôi trời – máu chảy thành hoa!!

Ngọn lửa Âm cung bừng cháy
Mạch nguồn Chân lý ra tro
Cả một lũ ma vô đạo
Nghênh ngang khoác lác giở trò …

Nẩy lên – cán cân công lý!!
Cháy dồn ngọn lửa Huyền Môn
Linh Tử làm tên quân thí
Dấn thân vào chốn loạn trường...

Gục đầu dưới bao sức mạnh
Đọa đày, chẳng một cứu sinh
Ngẩng trông đất trời vô vọng
Xin đừng giày xéo lòng tin!!


25/03/2009
51. NGHIỆP THẾ TRẢ VAY (08)


Tính tôi hiền, tế nhị lại cả nể – vì vậy lắm khi gặp chuyện “giở khóc giở cười”, giờ nghĩ lại vẫn còn cay đắng…
* Chuyện mười năm:
Mười năm trước có một ông Giáo sư Anh Ngữ quen với tôi! Nguyên ông là người đạo Tin Lành, lúc nào gặp cũng khuyên tôi theo Đạo. Tôi bảo: “Đạo nào cũng tốt cả, nhưng Đạo Phật là gốc nhà không bỏ được!”
Hôm ấy là ngày rằm tháng bảy năm 1997, buổi chiều sau giờ làm việc ông KL lên nhà tôi chơi, ông chỉ tay vào bàn thờ, ảnh của Phật Bà Quán Âm nói: “Phật Bà mà linh, hiện ra cho anh thấy mặt, anh cải đạo theo Đạo Phật liền…”
Ngồi chơi đến tám giờ đêm, ông KL ra về, cách nay mười mấy năm – con đường Cách Mạng Tháng Tám còn vắng vẻ, ban đêm ít người qua lại lắm, không đông đúc, nhiều xe cộ như bây giờ …
Qua khỏi đoạn đường ở cầu Tham Lương, ông KL có cảm giác chiếc xe chở nặng sau lưng! Quay đầu lại – ông KL kinh hoảng khi thấy Phật Bà Quán Âm (bằng xương bằng thịt) đang ngồi trên xe. Ông la lên: “Ai đó ? Sao ngồi trên xe tôi – xuống mau!” Người ngồi sau lưng nói: “Ta là Quán Âm Bồ Tát đây, chở ta về nhà ngươi đi – Ta muốn nói chuyện”
Ông KL sợ quá – siết tay ga hết cỡ, vốn người thận trọng – ông nhìn đồng hồ: tám mươi rồi chín mươi, một trăm, một trăm lẻ năm cây số/giờ! Phật Bà Quán Âm vỗ vai ông : “Cẩn thận con – kẻo xảy ra tai nạn!”
Phóng điên cuồng tới đường Au Cơ, quẹo cua vào một khoảng có nhiều bóng tối, ông KL thắng xe lại, hai tay bụm lên mặt cầu xin đức Chúa Trời cứu nạn, bỏ tay ra Phật Bà Quan Âm biến mất …
Trên đây là nguyên văn lời kể của ông KL, sáng hôm sau, khi kể lại mọi chuyện với tôi qua điện thoại – ông bảo: “Em cầu xin Phật Bà – nói anh yêu em thực lòng, đừng hại anh mà tội nghiệp!” … Rồi ông KL biến mất!
Bảy năm sau, mua đất cất nhà ở gần chỗ tôi, ông KL lại … theo tiếp!
Phần tôi – chỉ xem KL như một người anh, một người bạn vậy thôi! Khi đến nhà, hai anh em nói đủ thứ chuyện “trên trời dưới đất”!... Cũng thân nhau lắm – tôi có thể ngồi gọt từng thứ trái, bổ ra hai anh em ăn, hoặc làm ly nước quả đưa mời, nhưng tuyệt đối không có tình ý gì với ông ấy!
Đến một ngày – chịu hết nổi sự theo đuổi của KL … Tôi thắp hương, quỳ dưới chân Mẹ xin Điển trợ xoay chuyển cho tôi để tôi “dứt được gánh nợ” nầy! Tiếng Mẹ Diêu Trì: “Được rồi”! Để đó cho ta!”
Hai hôm sau, ông KL lên nhà tôi chơi vào khoảng xế chiều, ngồi đến bốn giờ – tự dưng mắt trái của tôi giật ba cái! Biết có chuyện chẳng lành sắp tới, tôi giục ông KL ra về, đứng lên tiễn khách … Bỗng nhiên – như có “ma nhập”, KL nhào tới ôm cứng lấy tôi, đè nghiến xuống ghế ở giữa phòng khách… Vùng ra được, tôi đứng lên chạy đi, ông ta chạy theo ôm níu lại! Điên tiết, tôi tát cho hai tát tai rồi đuổi thẳng: “Nói cho ông biết – tôi không phải là con cái để dành cho một con đực. Có muốn thì đi chỗ khác mà tìm … Cút ra khỏi nhà tôi ngay lập tức! Căn nhà này từ nay khóa kín cửa trước mặt ông rồi!”
Mãi gần hai năm sau, ông KL vẫn còn lân la đủ cách … đến nhà, bị tôi đóng sầm cửa ngay trước mặt, ông lại dùng điện thoại kêu van.
Vẫn chưa đủ dứt nghiệp chướng, ông nhờ bạn bè lên tiếp cận, nói nầy nọ đủ kiểu, đủ điều…
Bình tâm nghĩ lại, tôi biết đó là do bàn tay Mẹ xoay chuyển đấy thôi! Một người danh dự như ông ấy, lẽ nào làm một điều ô danh giữa phòng khách trong căn nhà kề bên đường – lúc cửa đang mở rộng?
* Sau nầy – qua mọi chuyện, tôi mới biết là, một người có ba hoặc bốn phần hồn: Khi còn sống ta có linh hồn hiện kiếp, thêm Linh căn hoặc Âm căn. Đến lúc chết, Linh hồn vĩnh cửu mới ra mặt!
1/ Linh hồn hiện kiếp: giống ta, là ta … cũng già đi theo thời gian và có quan điểm độc lập so với lý trí – Linh hồn và lý trí tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo ra hành động, ứng xử – đạo Phật gọi là “Nghiệp duyên”!
2/ Linh hồn vĩnh cửu: Hết một kiếp trần, khi con người chết đi, linh hồn hiện kiếp rời thân xác! Quanh quẩn ở cõi người trong cảnh sống cũ hoặc thụ lãnh ngục hình ở cõi Địa Ngục, lúc nầy linh hồn vĩnh cửu mới xuất hiện, nhập vào linh hồn hiện kiếp, thọ lãnh tất cả những gì tạo tác và mang nó đi đầu thai vào kiếp lai sinh. Lúc này hồn hiện kiếp triệt tiêu!
Lại bắt đầu và mở ra một vòng luân hồi mới với những nhân quả tồn tại và mới phát sinh …
Chỉ linh hồn nào được về ngôi Cửu Huyền mới còn được tồn tại – Do những tội phước tạo tác trong hiện kiếp mà những phần âm Cửu Huyền cũng mang nhiều dạng thể khác nhau: Ma quỷ, yêu tinh, Thần, Tiên, Thánh ..vv..vv..
Ai có phúc, được sanh vào Tộc họ có Cửu Huyền biết tu nhân, tích đức được hưởng phước báo tổ tông – Ai vô phúc sinh vào nhà có Tộc họ mang nhiều ác nghiệp như ngạ quỷ, yêu tinh – có Tổ nghiệp làm thầy: Thầy Pháp, Thầy Cúng, Thầy Bùa… vì tộc họ nào có Tổ nghiệp mà hiện kiếp không có người thọ ấn, hành theo nghiệp Tổ, con cháu bị “hành nghiệp” dữ lắm! Cửu Huyền có âm nghiệp nặng nề cũng phá quấy, trù dập con cháu đủ điều – nói theo ông bà ta xưa “Khó mà ngoi đầu lên được!”
3/Linh căn và Âm căn: có mấy lý do khi một phần Linh căn nhập thế, đầu thai làm người trần:
* Tình nguyện đi Hành Đạo độ đời:
Là những phần Linh căn có Đạo quả, Phẩm vị cao như: Trạng Ong Trạng Bà, Trạng Cô, Trạng Cậu, các Thánh Mẹ Thánh Bà, Thiên Tướng, các vị Thần, Tiên, Đồng nam Đồng nữ. Bên nhà Phật có các vị Phật, các vị Bồ Tát và Thánh: Thánh Nữ, Thánh Nam trung, Thánh Nam cao, các vị La Hán, Hộ pháp, các Đồng Nam Đồng Nữ …vv..vv…
Những vị nầy tình nguyện xuống độ trần, nhập xác làm người cõi thế trong trọn một kiếp trần hoặc chỉ trong một giai đoạn nào đó rồi rời đi….
Ngoài ra, còn có các vị là “Tinh chủ” (Có nghĩa là Vì sao chủ quản), xuống trần mang thân xác trần thế, học hỏi tiếp thu, sinh ra và lớn lên như mọi người, để rồi đến thời gian đã định thì tạo ra những phát minh, sáng chế để lại cho đời sau, dìu dắt nhân loại trên bước đường tiến hóa – Người trần chúng ta gọi đó là Thiên tài, Bác học hay Thần Đồng!
* Âm căn: Là phần nhánh khởi ra từ nhánh chính là Linh căn. Các Linh căn khi xuống trần hành đạo độ đời, có khi bị lôi kéo, quyến rũ vào con đường xấu – tạo ra nghiệp dữ, hết kiếp không được trở về, phải đầu thai sang kiếp khác – bao giờ trả hết nghiệp mới thôi … Âm căn là phần nghiệp báo của Linh căn, luôn phẫn uất, sân si, oán hận vì tiếc nhớ những quả vị của cõi trên! … Âm căn đáng sợ hơn Âm vong – vì Âm căn có phép thuật do dày công tu luyện mà thành! Cũng vì vậy, Âm căn chính là loại ác độc, hại người không nương tay, vì cậy thế vào tài phép của mình.
Linh căn thì “lủi thủi” đi theo Âm căn, không thể hành động hay can thiệp gì, chỉ biết cúi đầu chịu đựng sự quậy phá của âm căn! Tuy nhiên – nếu tỉnh táo, Linh căn có thể tác động gián tiếp vào xác trần, xoay chuyển cho xác trần biết lo tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nhân cách, biết thi ân bố đức để không tạo thêm nghiệp ác và tiêu trừ nghiệp cũ – đến khi tiêu hết nghiệp, phần Âm căn mới được đoạn tận, Linh căn mới được trở về cõi trên!
* Loại đi Tu Tập:
Là những Linh căn xuống trần để rèn luyện, học tập, tăng thêm hiểu biết để được nâng cao quả vị!
Đây thường là những Linh căn cấp nhỏ hoặc trung, cũng giống như lớp trẻ còn phải vào trường lớp, đi học, đi thi để được lên lớp cao hơn - Sau nầy, khi học đã đủ, có bằng cấp cao sẽ được đi làm việc, tạo thêm lộc phúc cho mình …
* Loại có tội bị lưu đày:
Những Linh căn ở cõi trên có tội, bị đày xuống thế – Tùy theo tội nhiều hoặc ít mà nghiệp chướng dày mỏng khác nhau! Chịu xuống làm người trần thế trong một thời gian nào đó rồi thôi, được trở về với điều kiện không tạo thêm nghiệp mới.
Khổ sở nhất là loại này, vì phải làm thân người hoạn nạn, khốn đốn triền miên…tội nặng còn có nhân dạng bất toàn, bị người đời rẻ khinh.
Cũng từ đây – Linh căn dễ ngã vào đường dữ do phẫn hận, sân si để rồi tạo ra thêm một nhánh âm căn – lưu đày kiếp này sang kiếp khác, chẳng biết đến bao giờ mới được trở về …
Âm căn cũng như “tế bào dị dạng”, một nhánh mọc ra từ gốc là Linh căn, như một bướu độc, ung thư – vẫn là của “chính chủ” nhưng lại là phần xấu nhất: ác độc, hung hăng, kiêu căng ngạo mạn vì có nhiều quyền phép nên thích phá khuấy hại người – Âm căn là sự khốn đốn triền miên của Linh căn …
* Phần bản thân tôi, tôi khám phá ra mình có hai phần hồn: Linh căn và linh hồn vĩnh cửu, hồn hiệp kiếp tôi chưa thấy bao giờ, hình như nó không hiện diện!
Hồn vĩnh cửu của tôi là cô gái độ chừng hai lăm tuổi, tóc thề bỏ xõa hoặc cột lại sau lưng, dài đến ngang eo (y hệt như khuôn mặt và nhân dáng của tôi thời hai lăm tuổi). Chỉ có điều cách biệt là gương mặt ấy có vẻ trưởng thành, già dặn và chín chắn hơn so với ngày xưa, nỗi đau đớn và muộn phiền hằn dấu …
Linh hồn hiền lành nhu thuận, ngây thơ, cả tin và khờ khạo! Vì vậy – tôi cứ mãi khốn đốn vì sự ngây thơ và cả tin của mình trong đời. Linh hồn thần phục “Điển Ông” vô điều kiện, như một con chiên ngoan đạo với Đấng cứu thế quyền năng.
Linh hồn vĩnh cửu của tôi hành động và ứng xử độc lập, không liên quan gì đến lý trí cũng như quan niệm và suy nghĩ, cảm nhận của xác trần – hồn cứ như là một con người khác trong tôi!
Có lần – đang giữa mùa hè nắng đến nung người, trời không có tí gió nào … Tôi ngồi trong quầy báo nhìn lên ngọn cây bã đậu bên kia đường – gió đang đi qua ở đó, những chiếc lá bay bay … vụt một cái! Tôi thấy linh hồn mình vọt lên đứng đó, trên ngọn cây cao – Gió thổi tóc bay lồng lộng!
Linh hồn của tôi không thấy già đi, đến phút nầy – khi xác trần bắt đầu già nua, tăng cân ra, da mặt không còn vẻ tươi trẻ ngày nào và mái tóc đã vương vài sợi bạc – Linh hồn của tôi vẫn cứ thế, cứ như một cô gái thanh tân với mái tóc thề buộc lại sau lưng … Sờ lên đầu mình mái tóc uốn ngắn củn cởn với những nếp nhăn hằn sâu trên vầng trán … Tuổi thanh xuân lặng lẽ qua đi trong gió bụi đường trần, trong dạn dày sương tuyết …
Suốt ngần ấy tháng năm – tôi cũng như linh hồn của mình vẫn không nguôi một niềm tin: rồi sẽ có một ngày đời mình hết khổ, sẽ tới lúc được nhẹ nhàng thân xác! Điều duy nhất mà tôi khao khát là “không còn phải chịu đòn thế cho tha nhân” nữa – Lúc đó … chắc trần gian nầy đẹp lắm, với tôi!
Sức đã mòn, lực kiệt mất rồi mà ngày bình an chưa tới. Những “trận đau thế” vẫn cứ kéo dài, dai dẳng và nghiệt ngã, tôi cứ như một tên tội đồ đeo gông, lần bước một mình giữa đêm tối mịt mùng…
* Đến một ngày linh hồn của tôi không còn chịu đựng được nữa – nó bị “điên”! Thường xuyên lên cơn cuồng loạn … Có lúc tôi đang ngồi đọc sách, cố né tránh cơn đau âm ỉ trong người, bỗng dưng nghe đâu đó từ bên trong dội lên một cơn nức nở vô căn cớ! Trụ thần nhìn lại, tôi thấy linh hồn mình đang nằm trên nệm lăn lộn gào khóc, đầu bù tóc rối y như một người điên … “Điển Ông” bước tới đỡ linh hồn dậy, nó chòi đạp dữ – không nghe!
Tôi ra dấu bảo Điển Ông rời đi, bước tới bên cạnh, tôi đỡ linh hồn ngồi dậy, lạ một điều là với tôi nó ngoan ngoãn lắm! Tôi bảo: “Nghe tôi nào – tôi đỡ ngồi dậy, để tôi cột tóc lại cho nha. Tóc tai rũ rượi vầy xấu lắm!” … Rồi tôi nhẩn nha nói: “xác trần tôi mới thê thảm chứ cô thì có làm sao đâu! Hết kiếp rồi cô lại rời đi, lướt gió nương mây nhẹ nhàng thanh thản – còn tôi xác trần đớn đau trọn kiếp, chết đi lại về mục rã cùng cát bụi đó thôi … Cô phải bình tâm để tôi còn chút thanh trong mà an ủi, cô gục xuống như vầy tôi biết nương tựa vào đâu?”
Linh hồn lúc ấy ngồi ngoan cho tôi cột tóc và nghe tôi nói, nghe vừa dứt câu linh hồn biến đâu mất tiêu – chỉ còn một xác trần tôi ngồi đó mà … khóc!
Lạ một điều: Tôi chưa bao giờ nghe linh hồn của mình lên tiếng nói, suốt từ bấy đến giờ – Nó thoắt hiện rồi biến đi trong thoáng chốc, không theo ý muốn của tôi. Ngồi nói lan man một hồi, tôi mới biết: ra mình đang nói với … bức tường câm!
Dạo gần đây – Linh hồn của tôi vẫn thường xuyên xuất hiện đột xuất và lên cơn như vậy. Có lúc thấy đứng áp mặt vào tường – vừa cười đó đã rũ rượi khóc rồi! Khi lại múa may quay cuồng trong một vũ điệu hoang dại và bi thảm.
Quả thật – Linh hồn tôi nó “bị điên” mất rồi!

Nhân đây, tôi chép tặng các bạn mấy bài thơ tôi làm trong những giai đoạn “xuống dốc” của Linh hồn và thể xác – Mời bạn đọc nhé!

ĐAU

Thầm lặng ta chờ – đáy mộ sâu
Nỗi đau trần thế buốt ngang đầu
Thịt da muôn kiếp còn day dứt
Vay trả báo đền nợ biển dâu!

Đợi mãi mà sao đêm chẳng qua
Trời ơi – bóng tối cứ dài ra
Chăn chiếu như trăm ngàn dao nhọn
Thần ác bên rèm đón giấc xa …

Ta gọi, hồn ta chẳng trở về
Xác trần đau mãi đến u mê
Dẫu có chối từ trong muôn một
Biết trốn nơi nào – hận tái tê!

Mạch sống dường như cạn mất rồi
Sao còn nấn ná mãi – đời ơi!
Oan nghiệt nào gieo mà xác tạm
Cứ mãi đau vùi... lệ chẳng vơi!!

VÔ THƯỜNG VÀ BẤT TỬ

Sự bất tử vẫn nghìn năm tồn tại
Mặc tháng ngày, mặc dâu bể rồi qua
Người khép mắt – nghìn sau còn thiền định
Kẻ tráo trưng suốt kiếp trải phong ba!
Mây vẫn bay, gió nổi và sương sa
Lá vàng rụng – mùa tiếp mùa thay lá
Sinh rồi tử, tử sinh... và cứ thế!
Chu kỳ đời đâu làm động hồn thiêng
Hãy cho tôi một chút xíu vô tình
Trong tượng đá bao ngàn năm trầm mặc
Một chút xíu thờ ơ trong ánh mắt
Như nói nhiều – mà như chẳng nói chi!
Nhân thế ơi! Các người cứ cười đi
Dẫu cuộc sống phù du như sương khói
Dẫu hạnh phúc vấp ngã và lầm lỗi
Dẫu trái tim đầy giông bão, xót xa!
Tượng đá vẫn ngồi … thời gian trôi qua
Người tìm đến chiêm ngưỡng và suy ngẫm
Bao công thức truy tầm và tưởng tượng
Người vẫn người – tượng đá vẫn thờ ơ!...


ĐÊM TRẦN

Nhớ xưa kia hạnh phúc non thanh dạo
Thương trăng nầy ngơ ngác chốn trùng mê
Khói trần dương che khuất nẻo đi về
Mượn ảo giác chẳng hề thấy chốn!

Cúi nhìn đất … Hoa rơi dài ngọn sóng
Ngẩng trông trời – cõi đi gió về mây
Phúc dường bao, mà họa có ai hay
Đêm Linh tử nhìn trời sa ngấn lệ!

Góp bào ảnh xây đền đài tráng lệ
Gieo huyễn hư nên lớp lớp phù đồ
Người ngủ mê, cỏ dại lấp đôi bờ
Nẻo sau trước mịt mờ không thấy nữa...

Ai lang thang giữa một trời biển gió
Ai ngậm ngùi trông khói tỏa trùng vây
Cuộc phù trầm chỉ vị đắng men cay
Đôi mắt đỏ những đêm dài đất khách!!


NGUYÊN – BỊ

Tôi không muốn ngồi vào ghế Bị cáo
Để nghe đọc bản cáo trạng đời mình
Không muốn nghe lời Luật sư biện hộ
(Bởi khi cần nương tựa vào ai
người ta đã thiếu một phần lẽ phải)
Trong phiên tòa tối cao của Công lý
Tôi phải là Nguyên cáo – luôn luôn!
Và lắm người là Bị cáo, ồ! không
Đừng lo lắng – Cũng không cần biện hộ…
Đừng viện dẫn vào điều nầy lẽ nọ
Đừng đưa trái tim ra làm lá chắn cuộc đời
Đừng: Hãy vì – Đừng: cố gắng – Chớ: lương tri! …
Ôi! lẽ phải với lương tri vốn ngủ yên từ bấy


 Nếu tôi được cầm cán – cân – Công – lý
Tôi sẽ mở ngục hình tha thứ tội nhân
Những kẻ vì luân hồi quả báo phân thân
Tội tiền kiếp, hiện sinh còn mang nặng!
Nhưng trời ạ – tôi chỉ là Nhân chứng
Nhân chứng lặng câm của vở kịch đời
Và có thể người ta còn nhân danh Công lý
Một lúc nào đưa tôi vào ghế tội nhân
Bản cáo trạng lê thê với lắm tội danh
Đau đớn quá – nếu một mai … Người ạ!
Hãy thông cảm dùm tôi, đời nhiều hư giả
(Chẳng nên chìa đôi bàn tay cảm thông)
Đừng lại gần tôi hơn nữa – đừng, không!
Tôi sợ lắm – nếu một mai phải làm Bị cáo!


NÓI VỚI HỒN

Mai tôi sẽ bay lên (Nếu có ngày mai)
Khi cuộc sống ở nơi nầy chấm dứt
Linh hồn nhẹ khi hồn rời khỏi xác
Bay – bay – bay... vào vũ trụ bao la!

Người  cột đá vào linh hồn tội nghiệp
Nặng quá chừng, hồn sa xuống âm cung
Tôi chắp cánh cho linh hồn chuyển tiếp
Nhẹ hồn ơi! Hồn mặc sức chơi rông …

Đừng khờ dại chọn nơi nào bến đỗ
Dây xích thằng sẽ níu giữ hồn hoang
Bay, bay mãi … trên cao nhìn xuống nhé!
Tội gì chôn thân Địa ngục – Thiên đàng

Đừng để tai nghe những lời cám dỗ
Thiên đàng nhiệm màu và cõi Trên vui
Kẻo lầm lẫn không thể nào cải sửa
Hồn có một thân bị giữ mất rồi!

Hãy lang thang khắp nơi mà nhìn xuống
Đèn hoa muôn màu chớ vội mê say
Cái hạnh phúc trong sắc màu lấp lánh
Chỉ là mơ, ảo ảnh của phút giây!

Bay - bay - bay, một mình trong vũ trụ
Vũ trụ vô cùng chỉ một mình thôi
Ta làm chủ – và ta làm tớ
Ta yêu ta... ta yêu quá mất rồi!



TỪ DẠO ĐÓ

Từ dạo đó ta mang hồn vô tội
Đi lang thang trên khắp cả địa cầu
Đợi – kiếm tìm và thổn thức canh thâu …

Từ dạo đó ta làm thân du tử,
Bên vườn đời mục ruỗng những sân si
Manh áo khoác như một lời tự thú
Phận lưu đày – chờ bão tố thiên di!

Từ dạo ấy ta làm tên quân thí
Xây đền đài cho Giáo lý Huyền Môn
Giọt lệ mặn rỏ trên dòng nhật ký
Ngày bôi đen … rền rĩ khúc chiêu hồn!

Từ dạo đó con thuyền không bến đỗ
Trôi dạt hoài nơi góc bể phù vân
Cánh buồm nát càng tả tơi mỗi độ
Hồn u uyên cùng sỏi đá song hành …

Từ dạo đó lạc loài thân viễn cố
Hồn tha ma, chờ nội cỏ đầm sương
Trong hoang vu của thành quách thê lương
Bầy quạ đói hàng hàng rên rĩ khóc!

Chờ rút rỉa thịt da người tục khách
Trót giam thân vào nơi chốn loạn trường
Đợi… Một ngày thanh thản áo trần buông!



KHÚC CHIÊU HỒN

Người không có cả một thời quá khứ
Người không còn chỉ một chút tương lai
Cơn lốc cuộc đời lạnh lùng vây phủ
Tiếng gọi tha nhân nặng gánh lưu đày!

Hoa vẫn nở miệt mài bên hiên vắng
Đỏ, tím, vàng... ong bướm lại lần sang
Khung cửa khép, gió đi về thầm lặng
Tóc còn xanh – rồi tóc ấy võ vàng...

Câu réo gọi, lời than van thống thiết
Tiếng phôn reo nhức nhối đến bàng hoàng
Nguồn An cứu mượn vay cạn trút
Một góc đời người ngã gục, hoang mang!

Vẫn xa lắc bến bình yên cõi tạm
Khát khao tìm cành trắng đóa Vô ưu
Đêm Linh tử vọng trời cao – đòi đoạn
Hồn lang thang, lạc lõng chốn sa mù …

Người kêu cứu – và ta đợi cứu!
Người gọi ta, ta biết đợi chờ ai?
Cơn gió cả tận trời Linh Thứu
Dạo qua đời, Đạo thế nào khai?

Đã cùng tận niềm đau thể xác
Vẫn chưa thôi đày đọa linh hồn
Người ngẩng mặt nhìn trời khao khát
Gọi hồn ơi - Hồn bỏ xác bay lên!!


GỌI TRỜI

Trời ơi ngó xuống mà coi
Thảm chi thảm lắm, bắt tôi chịu hoài
An Trời tôi nắm trong tay
Cứu người – “An” cứu - đọa đày thân tôi!
Trời ơi ngó xuống mà coi
Tôi đau đớn vậy sao trời chẳng thương?
Trần ai sầu thảm tai ương
Trùng trùng sóng lệ, chẳng đường trở lui…
Trên cao nhìn xuống ông cười
Vẫy tay một cái, độ người trần gian!
Thân tôi làm mướn không công
Cứu người trời đánh, hỏi ông tội gì
Tội ngoan cố – tội bướng lì?
Tội hành sai việc, tội đi sai đường?
Trời rằng: “Chúng nó vô lương
Bỏ đi chẳng cứu, tội vương đến mình
Phép Trời cứu kẻ hiền minh!...”
Thưa rằng: “Oán ngập Thiên đình bấy nay!
Luật trời vay trả – trả vay
Vay từ tiền kiếp, trả hoài một thân
Sao không làm phúc ban ân
Cứu người một phút, khuyến nhân một đời


 “Giơ cao đánh sẽ” cho rồi
Làu làu phép trọng, ơn trời bao dung
“Con sâu cái kiến” hàm ân
Nguyền xin cải hối tu thân từ rày...
Lạy trời lượng cả công dầy
Quay lưng ngoảnh mặt thế nầy đành sao!
Tôi vì sanh chúng lao đao
Bỏ không nỡ bỏ, trời cao chẳng màng!
“Mi làm mi chịu, đừng than…
Mười roi chúng nợ đánh quàng sang mi!”
Ông trời – ông thử xuống đây
Thế trần lầy lội đêm ngày chẳng vơi
Ông mà đứng được, thời tôi
Nguyện xin kiếp kiếp luân hồi chẳng sai!

... Ngày mai hết một kiếp người
Tôi đây nhất quyết lên trời mà than
Các người áo mão xênh xang
Làm mưa làm gió – sai oan kể gì!
Trần ai khổ nạn sầu bi
Tai ngơ mắt lấp, sá gì Hóa Công?!

1 giờ sáng ngày 16/10/2009



VỌNG CẦU

Khi Thượng Đế không đứng về phía bạn
Một mình – nương cậy vào ai?!
Con thuyền NOÊ cũng đắm
Còn trơ một vọng hải đài

Ta nghe linh hồn than khóc
Âm vang rờn rợn thịt da
Tê điếng giữa làn môi nhạt
Ôi trời – máu chảy thành hoa!!

Ngọn lửa Âm cung bừng cháy
Mạch nguồn Chân lý ra tro
Cả một lũ ma vô đạo
Nghênh ngang khoác lác giở trò …

Nẩy lên – cán cân công lý!!
Cháy dồn ngọn lửa Huyền Môn
Linh Tử làm tên quân thí
Dấn thân vào chốn loạn trường...

Gục đầu dưới bao sức mạnh
Đọa đày, chẳng một cứu sinh
Ngẩng trông đất trời vô vọng
Xin đừng giày xéo lòng tin!!


25/03/2009