Thứ Ba, 26 tháng 8, 2014

40. LỄ TIẾT


I) Trang thờ Phật:
* Phương hướng:
- Chính giữa phòng khách, đối diện cửa ra vào hoặc phòng thờ
- Trên cửa “Bản mệnh” (tức cửa chánh trổ vào buồng), nằm trên cao ở vừa tầm với hoặc cao hơn.
* Thời gian: giờ Ngọ (từ 11g15 đến 13g), ngày rằm hoặc mùng 01 hàng tháng (tính theo âm lịch)
* Lễ vật: 01 đĩa ngũ quả, 01 trái dừa, 01 lọ hoa (huệ trắng hoặc hoa sen), 02 ly nước, 01 chai dầu thơm, có chè xôi hoặc không…
* Sắp lễ: bên phải bàn thờ là lọ hoa và 01 trái dừa, bên trái là đĩa ngũ quả, 02 ly nước để chính giữa phía sau lư hương.
Hình thờ không cần đưa lên Chùa để “khai quang điểm nhãn”, chỉ cần lau rửa sạch sẽ là được! Nếu hình thờ không có đèn chiếu, ta mua thêm hai bóng đèn nhỏ đặt ở hai bên trang thờ để đón thanh khí.
Người làm lễ phải tắm gội sạch sẽ, mặc đồ dài, đúng giờ Ngọ thì thắp ba nén hương (tất cả các bàn thờ khác đang có trong nhà cũng phải cúng hoa trái và thắp một nén hương)
* Lời khấn: Con tên: … là chủ của ngôi gia này! Hôm nay là ngày… tháng… năm… nhằm giờ Ngọ. Được ngày lành tháng tốt con xin phép đại diện toàn gia thượng trang thờ Phật (Phật Bà hoặc Phật Ông).
Con xin phép cung thỉnh (Phật Bà hoặc Phật Ông) về ngự tại ngôi gia của con, để trong nhà có Minh Chủ, đón khí thanh về, xua trọc khí rời đi! Cầu xin cho vợ chồng con cháu trong nhà trên dưới thãy đều biết tu nhân tích đức, làm lành lánh dữ để đẹp dạ Ông Bà Tổ Phụ cùng các Đấng.
Con xin phép làm lễ tẩy trần và dâng nước. Kính thỉnh (Phật Bà hoặc Phật Ông) hoan hỉ ngự về nhậm lễ…
(Cắm ba nén hương vào lư hương xong dùng chai dầu thơm xịt phía dưới chân hình thờ hoặc tượng, xịt vào dưới bình hoa và lư hương, xịt bốn góc trang thờ để làm lễ tẩy trần)
Quay lại rót hai ly nước kính cẩn dâng lên bàn thờ, xong quỳ xuống lạy ba lạy, đứng lên xá ba xá!
Nên nhớ các lễ cúng thượng trang hoặc ngày giỗ chạp, ngày Vía… nước và rượu phải dâng lên mời sau khi thắp hương và khấn. Bình trà (hoặc rượu) và các ly sắp sẵn phía sau lưng, khấn xong mới rót mời!
Nếu là nhà mới hoặc mới chuyển chỗ ở, ngay ngày giờ thượng trang Phật chúng ta có thể cùng một lúc thượng trang tất cả các bàn thờ khác trong nhà, không cần chờ đúng ngày lễ, Vía… Điều này làm đơn giản và chỉ tốn chi phí, công sức cho một lần thượng lễ.
Muốn thượng nhiều trang thờ cùng một lúc, ta phải sắp sẵn cỗ lễ, tất cả lễ tiết đều phải hoàn tất trong giờ Ngọ, quá giờ xem như lễ ấy bất thành!
Chai dầu thơm để trên bàn thờ Phật, ngày Vía hàng tháng sau khi cúng lễ, thắp hương ta lại xịt tẩy trần bàn thờ (nếu để ở bàn thờ khác, ta chỉ dùng riêng tại chỗ, không đem xịt sang chỗ khác được).
II) Trang thờ Thần Tài, Thần  Địa:
* Vía thần Tài mùng 10 hàng tháng! Nếu cúng ngày Vía thì thêm một đĩa tam sên và hai chung rượu (rượu trắng, không dùng rượu pha), đĩa tam sên gồm có ba thứ: thịt, trứng, tôm (hoặc cua) luộc chín.
* Phương hướng: bàn thờ đặt trong phòng khách hoặc phòng thờ, đối diện cửa cái, tránh không nên để ở (hoặc bên) gầm cầu thang lên lầu hay gác, (cả trang thờ Cửu Huyền cũng vậy). Nên để ở góc phải hay trái, không để chính giữa nhà.
* Lễ vật: 01 đĩa ngũ quả, hoa, 02 ly nước, chè xôi (lễ thượng trang cúng, khấn sau khi thượng bàn thờ Phật)
* Lời khấn: con tên……… là gia chủ của ngôi nhà này. Hôm nay là ngày… tháng… năm…, nhằm giờ Ngọ! Được ngày lành tháng tốt, sau lễ thượng trang Phật, con xin phép (Phật Bà hay Phật Ông) cho con cung thỉnh phần linh Điển của thần Tài thần Địa về ngự tại ngôi gia, để phò hộ cho gia đạo chúng con trên dưới trong ngoài bình an vô sự, tài lộc hanh thông!
Con xin phép làm lễ tẩy trần và dâng nước mời Nhị Thần ngự về nhận lễ vật cung nghinh.
(Cắm 3 cây hương lên bàn thờ, xịt dầu thơm dưới chân hình tượng, bình hoa, lư hương, bốn góc bàn thờ xong rót nước dâng cúng, lạy 3 lạy, xá 3 xá… thế là xong phần lễ Thượng Trang)

III) Bàn thờ Cửu Huyền:
Điều nên nhớ: nếu chỉ thờ từ cha Mẹ trở xuống con, cháu… ta có thể thờ bình thường, nếu có thêm ông bà, bắt buộc phải có bài vị Cửu Huyền để đại diện cho một chi phái, kiến họ! Bài vị có chữ hoặc chỉ là một tấm gỗ trơn để trên giá gỗ (có làm bán sẵn ở tiệm bán đồ thờ).
Không có bài vị Cửu Huyền là thất cách, con cháu cũng như gia chủ trong nhà sẽ bị hành liên miên, đau ốm, nạn tai và trục trặc, xào xáo bất an…
* Thời gian: cùng ngày với bàn thờ Phật, hoặc chọn một trong bốn ngày Vía Cửu Huyền: mùng 3, mùng 7, 13 hoặc 17 hàng tháng! Từ đó trở đi ta lấy ngày này làm ngày Vía Cửu Huyền, mỗi tháng cúng một lần cũng vào giờ Ngọ!
* Phương hướng: dưới bàn thờ Phật hay ở một góc phòng khách, hoặc trên đầu tủ thờ, hai bàn thờ phải đặt cách nhau tối thiểu 60 cm.
* Lễ vật: 01 mâm cơm (hoặc 01 con gà luộc, cháo hoặc xôi chè), 01 đĩa ngũ quả, 01 bình hoa, 02 ly trà, 02 ly rượu trắng, 01 chén gạo, 01 chén muối, giấy tiền vàng bạc…
(Gà cúng nên mua loại gà trống nhỏ độ chừng hơn kém 01 kí)
* Lời khấn: hôm nay ngày… tháng… năm nhằm giờ Ngọ! Con tên…………… là gia chủ của ngôi nhà này. Được ngày lành tháng tốt, con xin phép thượng trang thờ Cửu Huyền.
Con xin phép các chư vị Thần Tướng tứ trụ gia môn cùng thần Tài thần Địa, tam vị Táo quân… cho phép con cung thỉnh Linh Vị Cửu Huyền về ngự tại ngôi gia, để con cháu tiện bề hương khói trả ơn Ông Bà tộc Tổ.
Con xin đại diện cho gia đình: vợ chồng, các con cùng các cháu xin mời đại diện chi phái, tộc họ tứ thân phụ mẫu của vợ chồng con về ngự trên bàn thờ. Con xin phép làm lễ tẩy trần và dâng hương cung thỉnh Ông Bà Tổ Phụ… (sau khi xịt dầu thơm làm lễ tẩy trần, ta mới sắp bày thức ăn hoặc hoa quả, để tránh dầu thơm bay vào các thức, dầu thơm cũng xịt bên dưới hình thờ, lư hương, bình hoa và bốn góc trang thờ)
Bày thức ăn xong, ta rót dâng mời Ông Bà Tổ Phụ 02 ly nước và 02 ly rượu (rượu mời ít chừng ¼ chung, không nên rót nhiều).
Sau khi mời rượu, ta xin phép đốt hóa tiền vàng (lạy 7 lạy, xá 3 xá rồi đốt), tiền vàng khi đốt để vào một thau chậu bằng nhôm cũ, đừng bỏ ngoài nền đất mà đốt!
Nên mua hai chum nhỏ có nắp đậy để đựng gạo, muối cúng Ông Bà. Đậy nắp để nguyên như vậy đến tháng sau ngày cúng Vía Cửu Huyền ta thay gạo muối mới, gạo muối cũ đem ra nấu ăn bình thường.
IV) Các dạng lễ cúng khác:
* Cúng Vía Cửu Huyền hàng tháng ta không cúng tiền vàng (vì Cửu Huyền đã có hộc của, kho của rồi).
* Bất cứ lễ cúng nào (ngay cả cúng giỗ) cũng phải vào đúng Ngọ. Nếu cúng khác giờ, xem như cỗ cúng bất thành, âm phần không được nhận lễ! Ngoài giờ Ngọ, cúng phần âm hoặc nói nôm na là “cúng cô hồn” ta có thể cúng từ 7 giờ tối đến 11 giờ đêm
* Lễ cúng không cần chờ đến tàn nhang mới dọn xuống, sau khi đốt hóa tiền vàng độ chừng mười, mười lăm phút ta dọn được rồi! Vì âm phần nhận lễ rất nhanh, để quá lâu ruồi nhặng bu đậu, chúng ta ăn vào dễ bị trúng độc…
* Các cỗ lễ cúng (ngay cả cúng cô hồn) ta đều đem vào ăn được, không bỏ gì hết! Vì vậy, khi cúng nên chọn món ngon mà ta ưa thích, đừng cúng thứ dở, để rồi đem vứt bỏ đi, ta sẽ mắc tội khinh rẻ âm phần!
Trừ cúng xả xui, giải nạn, giải tà - người cúng đem ra góc ngã ba, ngã tư đường mà cúng, và phải bỏ lại tất cả, không mang theo thứ gì về nhà, ngay cả chiếc quẹt gas… cúng xong trở về tới trước cửa nhà, ta đứng lại ngoài ngõ phủi sạch sẽ quần áo (để giải trọc khí, khí xấu không theo ta vào nhà)
* Nếu cúng cho các âm phần, âm căn hoặc Chúa Quỷ, Thần Thánh… không phải là các âm phần ở trong nhà, khi cúng ta để ngoài hàng hiên trước nhà, lệch qua khỏi cửa cái, về phía đường lớn có xe cộ lưu thông (để phần âm nhận rồi đi, không ở lại trong nhà. Nếu cúng giữa cửa cái, Ông Bà Tổ Phụ và các Chư Thần trong nhà sẽ không cho nhận).
Trừ các nơi làm ăn mua bán thì cúng trước cửa nhưng vẫn để lệch khỏi chính diện.
* “Trần sao âm vậy!”, ta thích ăn gì, thì cúng phần âm món đó, cúng xong ta lại dùng chẳng mất đi đâu! Đừng cúng thứ trái xấu, bánh dở… cúng xong có người vứt ra đường cho xe cộ qua lại giày xéo, trông xót xa biết mấy… cúng như thế chỉ tán tài tán lộc thêm mà thôi (lời Mẹ Diêu Trì dạy)
* Các Đấng cũng như Ông Bà Tổ Phụ, có cho lộc thì ta mới có lộc! Đồ cúng tùy theo gia cảnh, có tiền cũng nên cúng hoa đẹp, trái tốt! Các Đấng với Ông Bà nhìn thấy cũng đẹp dạ, vui lòng, ta mới hưởng lộc và giữ lộc được. Không tiền thì cũng lau rửa bàn thờ, dâng lên hai chung nước trắng với 1 nén nhang (lời Mẹ Diêu Trì)
* Cúng các Đấng cũng như các vị Thần Tiên, Trạng, Thánh Và Chúa Quỷ... khi có đồ mặn ta mới cúng rượu, cúng âm không có rượu (phần âm say sưa sẽ sanh tâm dữ hại người)
* Cúng các Đấng như Thần Tiên, Trạng Và Chúa Quỷ... ta cúng một đĩa tam sên, hoa trái, nước và rượu! Khi cúng, nên mua các con vật làm sẵn bày bán ngoài chợ, chớ nên mua đem về nhà mới giết mổ, cho đỡ phạm tội sát sinh, thêm âm khí, trọc khí trong nhà... Con vật khi đã chết là đã trả nghiệp rồi, ta không vướng nghiệp sát nữa... Gọi là “né tránh” chút xíu cho giải bớt oan nghiệp vậy thôi - Đã là người trần thế, chuyện “ăn mặn” là chuyện thường tình. Đôi lúc “buồn miệng” ta ra chợ mua một, hai kí nghêu sò ốc hến về luộc chín mà ăn, không hay biết vì ta mà trăm ngàn sinh linh nhỏ bé phải chết!
Hoặc “trứng vịt lộn” bỏ vào nồi nước nấu từ lúc nước còn lạnh đến nước sôi, chúng ta thử nghĩ xem các con vật trong ấy đau đớn đến thế nào!
Cũng cần phải “ăn để sống”, thôi thì mua con vật làm sẵn, ăn không ngon bằng đồ tươi sống nhưng đỡ phạm tội sát sinh... (lời Mẹ Diêu Trì dạy)
* Khi cúng Vía Cửu Huyền hàng tháng, ta nên cúng thêm một mâm cho các âm phần của bàng hệ. Ông Bà ở đâu, con cháu chầu theo đến đấy! Con cháu, chắt có họ hàng xa gọi chung là bàng hệ, để cho họ đói thì họ quậy trong nhà...
Cúng bàng hệ phải để dưới thấp, không để trên mâm cao, họ không dám nhận! Khi cúng ta cúng thêm giấy tiền vàng bạc (nhưng phải xin bàn thờ Cửu Huyền chính trên cao cho phép), không cúng rượu. Thức cúng thì nên cúng những thứ âm phần các loại có thể ăn để no, hơn bánh trái thường chỉ để ăn làm vui... Ví dụ: bánh chưng, bánh tét, bánh đa, khoai củ...
* Mùng 8 tháng 8 hàng năm là ngày lễ Thông Thiên (tức ngày đường lên Trời mở cửa), ta có thể chọn ngày này để cúng giỗ Hội (Ông Bà Tổ Phụ đã mất lâu năm, chúng ta dồn lại cúng giỗ chung một ngày, gọi là ngày Giỗ Hội). Đây cũng là ngày Giỗ Nghiệp Tổ Nghiệp - Tông hoặc ngày ta dâng lễ cầu xin giải nạn, giải nghiệp...
+ Cúng Cửu Huyền: 01 mâm cơm, gạo muối, hoa, trái, 02 trà, 02 rượu (hoặc gà luộc, xôi chè, bánh trái)
+ Cúng các chư vị Quan Binh, Thần Tướng: đĩa tam sên, hoặc thịt heo quay (hoặc vịt quay), 02 trà 02 rượu, hoa trái, chè xôi, giấy tiền (loại để cúng chư Thiên).
+ Cúng Phật: hoa trái, chè xôi, nước.
* Ngoài ra còn vài loại cỗ cúng khác như:
- Cúng khai trương,
- Cúng nhập gia
- Cúng động đất cất nhà
- Cúng xoay chuyển mồ mã Ông Bà Tổ Phụ
- Cúng giải nạn, giải nghiệp
- Cúng rước vong chết đường, chết chợ trở về nhà
- Cúng đưa vong trẻ hư thai, chết nhỏ đi đầu thai
- Cúng Chúa Quỷ
- Cúng Binh Gia
Và thần Tổ Nghiệp... xin các bạn đón đọc ở HMLK tập 3, kẻo viết dài dòng e sa vào đường mê, không biết lối ra mất...
Người trần chúng ta có trong tay tất cả những phương tiện khoa học hiện đại, vũ khí tối tân, tưởng mình dõng mảnh nhất! Đâu hay rằng chỉ một trận cuồng phong thành quách cũng không còn. Ông cha ta tự ngàn xưa còn lưu truyền những nghi thức cúng lễ trang trọng và hoành tráng đến tận ngày nay, người ta gọi đó là “thuần phong mỹ tục”...
Mỗi buổi tối thắp vài nén hương trên bàn thờ, không khí trong nhà ấm cúng hẳn lên! Các ngày Lễ Vía, cỗ cúng và các nghi thức cúng đơn giản mà trang trọng làm cho cả gia đình vợ chồng con cháu đều cảm thấy dậy lên trong lòng niềm tôn kính những người đã khuất, ý muốn trau dồi đạo đức nhân tâm và ý thức hệ trong mỗi cá nhân.
Lại nữa, trong căn bản của niềm tin, người ta đã tìm thấy sự bình an và tin tưởng. Đương nhiên là chớ đặt để niềm tin vào chỗ cuồng tín đến mù quáng, sa vào ngõ tối đường mê!



39. SỰ XUẤT HIỆN CỦA CÁC
PHẦN LINH ĐIỂN LIÊN ĐỚI (2)


* Chúa Ngọc Nương Nương hiện hình:
Một đêm vào tháng 7/2005, điện cúp đột ngột! Nhà tôi lúc đó có ba cô cháu: tôi cùng cháu Minh và Tuyết (học trò nhân điện). Chúng tôi thắp cây đèn dầu ngoài miếu thờ Mẹ…
Tuyết bảo: “Để con ra thắp hương Mẹ rồi con về!”, vừa ra, Tuyết chạy vào ngồi sụp xuống chân tôi, nói không ra hơi: “Có ma cô ơi, ma ở ngoài miếu, ma nhập vào tượng Mẹ nhìn con cười đàng hoàng!”. Tôi nạt: “Nói bậy không, ma quỷ nào dám nhập vào tượng Mẹ!”. Cháu Minh nghe vậy chạy ra rồi cũng trở vào mặt mày xanh lét: “Đúng là người thật mà cô, thấy con tới cũng nở nụ cười”. Cô cháu tôi “lò dò” đi ra… Đúng là tượng Mẹ hóa thành người thật, chớp mắt và nở nụ cười với chúng tôi. Trời ạ! Khuôn mặt Mẹ Diêu Trì rộng lớn phương phi, hai mắt dài có đuôi, người tôi thấy mặt trái xoan nhỏ nhắn, mắt hai mí tròn xoe, nhìn thấy chúng tôi mỉm miệng cười chào!
Tôi chạy vào nhà, thắp hai cây nến to mang ra: “Chắc do cây đèn dầu ánh sáng yếu nên mình tưởng tượng ra thế!”. Khi ánh nến sáng rực soi vào, pho tượng cũng nhếch miệng cười chào như cũ, cả ba cô cháu đều sợ run… Vừa lúc ấy điện có, tôi nói hùng hồn: “Điện sáng, hết ảo giác rồi, còn sao được, ra coi!”. Vẫn là người nhập vào tượng Mẹ cười cùng chúng tôi như cũ…
Tôi vào nhà thắp hương xin Mẹ Diêu Trì, xãy thấy ngoài miếu bước vô một người tự xưng danh là Chúa Ngọc Nương Nương (Người đời hay thờ trong nhà, gọi là “Mẹ Sanh Mẹ Độ”), Người bảo mình có dịp đi qua, rẽ vào thăm cô cháu!
Nghe vậy tôi kính cẩn: “Con chào Mẹ”. Người ấy nói: “Chúa Ngọc là nữ cô, con gái của Mẹ Diêu Trì. Chúa Ngọc xin chào Lục Nương!”. Người giải thích với tôi rằng: tôi có một phần Linh căn bên Địa Mẫu, là người vợ phẩm thứ sáu của Ngọc Đế, phẩm danh là “Lục Nương”. Người cho biết: Ngọc Đế có một Hoàng Hậu, phẩm danh là Thiên Hậu Nương Nương, cùng với chín Ai phi, phẩm tước xếp từ thấp đến cao! Người có tài điều binh khiển tướng toàn cõi là “Cửu phẩm Lệnh Bà”, còn gọi là “Diêu Trì Địa Mẫu Chơn Thiên”.
Nói thế thôi, Chúa Ngọc người chào chúng tôi rồi đi!

* Chúa sứ Nguyên Nhung.
Rằm tháng 8/2006 (ngày Vía bà Cửu Thiên), chị em chúng tôi nấu bốn mâm cơm chay cúng Mẹ!
Vừa thắp hương xong, Vía tôi thấy một người bước vào ngồi xuống ghế, người ấy xưng: “Ta là Diêu Trì Địa Mẫu”, tôi nhìn kỹ, hóa ra không phải Mẹ, một người mặc đồ võ tướng, người nhỏ nhắn, đeo bao tay màu đen, chân mang giày cao ống của Tướng võ, cân đai mũ miện đường hoàng!
Tôi bực mình nạt: “Đừng có lừa tôi! Mẹ Diêu Trì nào mặc đồ võ, giọng nói cũng không phải của Mẹ! Cho biết người là ai, nếu không đừng trách sao tôi xúc phạm à nghe!”. Người ấy cười xòa, cung tay vái tôi một cái rồi nói: “Tôi là Chúa Sứ Nguyên Nhung, ái nữ của Diêu Trì Kim Mẫu. Chúa sứ Châu Đốc cũng là tôi, xin chào Lục Cô Cô!”…
Hết “Lục Nương”, giờ lại đến “Lục Cô Cô”, gì kỳ vậy không biết nữa! Tôi nói: “Con xin chào Mẹ!”. Nguyên Nhung cười khì một cái, bảo: “Nguyên Nhung là nữ cô!”. Tôi lại nói: “Người đời gọi Nguyên Nhung là Mẹ, tôi cũng là xác trần, xin cho phép tôi gọi Người như người trần thì hơn!”.
Chúa sứ Nguyên Nhung nói: “Người làm khó tôi, tôi không thể tiếp chuyện cùng Người, tôi đi đây. Xin chào!”. Lại cung tay vái một vái rồi biến mất…

* Lê Sơn Thánh Mẫu:
Tôi không nhớ Mẹ Lê Sơn về với tôi lần đầu như thế nào, chỉ nhớ hình tướng Mẹ như đàn ông: mũi dài, môi thâm, miệng lúc nào cũng bỏm bẻm nhai trầu… Người về với tôi hay mặc bộ đồ gấm màu trắng kem, cổ dantone, tay lỡ rộng! Tính người nóng nảy bộc trực, ăn nói bỗ bã bình dân, không kiểu cách, quyền uy, chẳng cần “thủ lễ thủ bộ” gì cả! Người giống như một bà Mẹ miền quê chơn chất nghĩ sao nói vậy, thực thà như đếm…
Nhớ lần đầu gặp Mẹ, tôi đã “phỏng vấn”: “xin Mẹ giải thích cho con biết: tại sao những xác Đồng múa bóng, múa rỗi thường đa số đều “ái Nam ái Nữ?”. Mẹ cười nói: “Không biết nữa! Chắc tại giống ta nên ta chọn!”. Mẹ giải thích thêm: người Nam thì có sức nhưng thiếu độ mềm dẻo, người Nữ lại sức không bền! Múa rối cần người có sức lực lại phải mềm dẻo trong cử điệu.
Tôi vẫn còn nhớ có lần Mẹ Lê Sơn rầy dạy tôi một cách chân tình như sau: “Bây nhịn Mẹ một chút không được sao (ý nói Mẹ Diêu Trì), cứ cãi lại hoài. Bà nói thì cứ im nghe đi, từ từ rồi tính! Ta nói cho mà biết nè: từ cõi dưới tới cõi trên chẳng ai là không thích “nịnh” hết! Ngọt ngào một chút với Bà cho Bà vui. Bây được chứ không mất mát gì đâu mà lo!”.
Mẹ Lê Sơn nghe nói thì “dễ chịu” vậy đó, nhưng chớ có lầm! Mẹ “hét ra lửa” chứ chẳng chơi - Làm cho Mẹ giận đi rồi biết… Mẹ là người chủ lễ, từ lúc Mẹ về, tôi được Mẹ dạy dần dần các lễ tiết trong nghi thức thờ cúng, sao cho đơn giản nhẹ nhàng, ít tốn kém và đạt kết quả…
Bề Trên vốn không chú trọng về hình thức mâm cao cỗ đầy, chỉ cốt thanh sạch và trang nghiêm là được!
Tôi viết lại đây tặng các bạn cách cúng để thượng Trang thờ hoặc ngày Lễ, Vía… Các bạn có thể sử dụng cho mình, và tôi chịu trách nhiệm về sự ứng nghiệm! Chỉ cần các bạn thực hiện đủ các bước mà tôi đề ra - Còn một vấn đề quan trọng không kém lễ tiết là phương hướng, nơi đặt bàn thờ, bài vị... xin chuyển sang đề mục liên tiếp, để cho bạn đọc tiện bề tra cứu!


38. NGHIỆP THẾ TRẢ VAY (06)



* Ngày xưa, vì gia cảnh khó khăn, tôi đã ba lần đi “kế hoạch” khi vừa kịp cấn thai - Về sau, cứ vài tháng tôi lại mơ một lần, trong giấc mơ thấy mình bồng bế đứa con trai chừng sáu, bảy tháng tuổi, cũng khuôn mặt ấy, quần áo ấy! Bé rất ngoan, không hay khóc nhè, khi khó ở trong người chỉ nhăn mặt tí xíu xong lại cười ngay… Tôi thấy mình lo bươn bả chữa bệnh cho người, bế con đi trần trụi ngoài đường, nay chỗ này mai chỗ khác… Mỗi lần thức giấc tôi ngồi thừ ra suy nghĩ: “Bé Chi con út lại là gái, đâu có con trai sao cứ mơ hoài, đứa bé ấy là ai?”. Nói đó rồi quên đó, công việc bộn bề cuốn hút, tôi lại quên đi…
Đến một ngày nọ ba đứa con về đủ trong nhà, tôi lại mơ thấy mình đi chữa bệnh cho người, ở nhà ba anh em mê chơi bỏ mất em bé… Vía tôi thấy mình hoảng loạn khóc la đi tìm con! Hai đứa lớn ngủ nhà trước chạy vào lay tôi dậy hỏi: “Mẹ mơ thấy gì mà la hét dữ vậy?”, tôi kể lại giấc mơ, cháu hỏi: “Mẹ nhớ lại coi có bỏ đứa con nào không?”… Tôi rùng mình sực tỉnh, bèn khấn Mẹ: “Nếu đúng như vậy, con xin Mẹ cho mơ thêm một giấc giống y hệt để con tin!”. Liền đó tôi lại mơ: Vía thấy năm, sáu người bệnh tới nhà chờ chữa bệnh - Lúc đó con trai nhỏ của tôi (vẫn là đứa bé ấy) cũng đang tiêu chảy và nóng sốt, trời thì lạnh cắt da! Không kịp nấu nước nóng để pha, tôi đem cháu vô vòi nước rửa vội vàng, xong cho ngồi vào một cái sọt nhựa (loại để đựng quần áo), lo đi chữa bệnh cho người ta… Thằng bé đang bệnh, sốt cũng chỉ nhăn nhó vậy thôi chứ không thấy lên tiếng khóc!...
Tỉnh dậy tôi nghĩ thương con ngồi ôm mặt khóc một mình. Sáng ra tôi xin Mẹ cho tìm vong bé trai ấy, Mẹ Diêu Trì đưa về một bé trai đẹp như tranh vẽ, hai mắt to, tròn xoe, tóc màu bạch kim, bụ bẫm và xinh xắn như một thiên thần độ chừng ba, bốn tuổi!
Tôi ôm con khóc, xin lỗi vì đã bỏ quên con ngần ấy năm trời… Han hỏi, cháu cho biết mình là “Thiên đồng”, không có tên riêng! Cháu kể mình còn có sáu người bạn, ba trai ba gái ở cùng một nhóm. Do Thái Bạch Kim Tinh điều quản: “Chúng con bay đi, đến mọi nơi. Chúng con ca hát và múa cho hoa nở, cho chim hót và cho mọi người cùng vui…”
Tôi xin Mẹ cho lập bàn thờ, thờ bé. Mẹ nói: “Nó là thiên thần, không phải âm vong, thờ làm chi!”. Tôi xin Mẹ cho nhận con, và nhờ Mẹ đặt cho cháu một cái tên. Mẹ Quán Am nói: “Thiện Tâm, Thiện Phúc, Thiện Nhân”. Mẹ Diêu Trì thì bảo: “Thiên An!”. Tôi xin Mẹ cho chọn tên bé là Thiên An, và xin cho lễ cúng Cửu Huyền để nhận con. Hỏi bé muốn ăn gì, bé bảo: “Con muốn ăn thứ bánh mà các anh chị ăn tối hôm qua!” (Bánh bông lan), tôi muốn cho bé quần áo, giày dép các thứ và nón, dù… Bé nói: “Cho bé ba cái nón khác màu để bé tặng ba bạn trai, cho giày có quai hậu để bay không bị rơi, bé không cần dù, bé có cánh quạt mát lắm, không cần dù che đâu!”
Tôi bày một mâm có gà luộc và bánh trái các thứ, bé hỏi: “Bé đem các bạn về ăn chung có được không?”… Thế là bé đi gọi bạn trong lúc tôi thắp hương khấn Mẹ. Nghe tiếng quạt cánh “xành xạch” sau lưng, quay lại thấy bảy em bé giống y như nhau, có điều ba bé gái tóc xoăn dài, còn 4 bé trai tóc xoăn ép sát da đầu… Các bé đứng xuống đất thì bước đi bình thường, đôi cánh sau lưng biến đâu mất!
Tôi bảo: “Các con thử múa chào Mẹ coi nào!”. Ngay lập tức đôi cánh màu trắng lại hiện ra sau lưng, các cháu xếp hàng ngang trước bàn thờ Phật nhún mình vỗ cánh ba lần, xong quay lại phía tôi cũng làm như vậy! Tôi ngạc nhiên chỉ tay vào sau lưng các cháu, Mẹ Diêu Trì ra dấu ngăn lại, không cho tôi lên tiếng sợ cháu ngượng… Mỗi bé có một cái đuôi ló ra đàng sau, giống như đuôi cá, màu xanh da trời giống màu áo của bé, không có màu trắng như đôi cánh!
Từ đó tôi có thêm một đứa con trai - dạo đầu bé còn ngượng nghịu, về sau thì như con ruột trong nhà, có điều những thứ không ăn được bé ăn vào nôn ra thấy mà thương! Đậu hũ kho thịt bé không ăn được, sầu riêng cũng không…
Có lần bé về, thấy chị Chi đang nằm trong lòng Mẹ, bé đứng nhìn, đôi mắt mở to buồn rười rượi… Biết ý, tôi bảo bé Chi ngồi dậy, vẫy bé lại ôm vào lòng han hỏi, hôn lên trán và vuốt ve âu yếm! Bé bảo ở cõi Trên không có tình, không ai biểu lộ tình cảm với ai hết, chỉ có công việc và mệnh lệnh, cuộc sống tập thể đầy đủ, không thiếu thốn gì cả nhưng không có tình thương yêu: “Bé cũng muốn được Mẹ thương như thương chị Chi vậy!”, nghe con nói mà thương đứt ruột! Hèn nào cõi trên các Đấng cũng muốn xuống trần, mặc dù trần thế đầy cạm bẫy, đắng cay và hệ lụy… Nếu không có tình thương yêu, thì lầu vàng điện ngọc ích chi! Nếu con người sống với nhau lãnh đạm như một cỗ máy biết đi, chắc có lẽ hoa không nở, chim thôi hót, suối không còn chảy nữa và cuộc đời chẳng có mùa xuân…
* Sinh bé Chi ra, tôi quên bẵng đi mất phần Linh căn của bé là Minh Tâm, cứ ngỡ hồn nhập xác trần. Bé Chi lúc nhỏ đau bệnh liên miên, có một chứng nặng nề mà tôi chữa hoài không khỏi suốt mười mấy năm liền: chứng đau bụng! Bé thường lên cơn đau đột ngột, bụng đau quằn quại khiến bé gập người, mồ hôi vã ra, mặt mày tái mét - Cơn đau kéo dài chừng mươi, mười lăm phút, có khi cả giờ đồng hồ, tôi chữa bệnh hạ xuống ngay lập tức rồi lại lên tiếp như cũ, chừng ba, bốn lần cấp cứu mới hết hẳn!
Mới đây bé lên cơn đau ở lớp, nhà trường gọi Ba cháu lên rước về! Tôi sinh nghi gọi phần Linh căn bé Minh Tâm về, thấy cháu ngồi gục đầu trước bàn thờ Phật, dìu cháu đứng thẳng lên tôi thấy lộ ra hai mắt quỷ đỏ ngầu… Tôi hỏi thì cháu bảo hơn mười ba tuổi bị xe đụng vỡ lá lách mà chết, từ đó cứ đau hoài, mỗi lần lên cơn thì hai mắt quỷ lại xuất hiện, hết đau mắt không còn đỏ, cháu lại là bé Minh Tâm xinh xắn! Tôi chữa cho cháu, xin phép dùng Phật ấn để giải nghiệp cũ, hai phút sau bé Minh Tâm hết đau và bé Chi cũng tự động hết dù tôi không chữa cho bé…
Độ hai mươi phút sau, tôi phát đau bên thành bụng bên trái, đau đến đi đứng cử động không nổi, độ nửa tiếng đồng hồ sau, cơn đau tự động hết!
Đêm hôm sau nữa, tôi lại gọi bé Minh Tâm về chữa bệnh và giải nghiệp, cũng bị cơn đau bụng ở phía mình y hệt như lần trươc. Bé Chi nói: “Thấy chưa, con bị đau như có ai cầm dao cắt từng đoạn ruột, con nói mà Mẹ không tin”
Bà Barbara Ann Brennan, tác giả cuốn “Bàn tay ánh sáng” gọi những cơn đau đột xuất đó là ngọn giáo tiền kiếp”, tức sự đau đớn ở kiếp trước, ngay trước lúc chết, những cơn đau đến và ra đi không rõ lý do. Đương nhiên các xét nghiệm của bệnh viện không tìm ra bệnh, Phật bà Quán Thế Am gọi đó là bệnh do Căn hoặc Nghiệp!
Bệnh căn là bệnh của các phần Linh căn ở trên xuống, do có tội bị đi đày. Bệnh Nghiệp là bệnh của linh hồn vĩnh cửu, chịu cái đau do nghiệp tiền kiếp dồn trả… Chúng tôi sợ nhất là loại bệnh này, chữa “trần ai” mới hết, lại chịu đau thế, đau trả dữ lắm!
Không phải phần Linh căn chủ xác nào cũng được tự nhiên nhập xác trần, phải đúng thời điểm ấn định! Có người bốn, năm mươi tuổi, có người hơn hai chục, có người chưa đầy mười tuổi đã ứng về… Chỉ có phần bị đi đày mới nhập xác từ sơ sinh, những phần ấy không có linh hồn vĩnh cửu, chỉ có hồn hiện kiếp, và thường phải chịu một hoàn cảnh rất nặng nề (tùy theo tội trạng).
Mãn hạn lưu đày, nếu không gieo Nghiệp mới thì được trở về, bằng không lại phải đầu thai kiếp khác để trả tội đã vay! Người trần thế không biết, cứ gieo nhiều nghiệp chướng để rồi hết kiếp người phải chịu nghiệp báo luân hồi sang kiếp khác. Vì vậy mà chúng ta thấy nhiều hoàn cảnh trái ngang, nghịch thường và bất công đến nỗi khó tin, để chỉ có thuyết “Nhân quả luân hồi” của nhà Phật là hợp lý hơn cả!
Được làm thân người đã khó, chẳng chịu gieo Nhân lành… Đến một lúc mất cả thân người, thành ngạ quỷ, súc sanh, hồn lạc phách xiêu lang thang hàng xứ đói rét lạnh lùng, phẩn hận không nguôi - Hoặc như loài vô tri vô giác súc sanh, bàng sanh không còn cơ hội trở lại kiếp người được nữa.
* Mùng 8 tháng 5 năm 2006 Ba tôi mất sau mấy tháng nằm bệnh… Tôi về quê Nội ở Vĩnh Kim – Trà Vinh (nơi Ba tôi sống cùng người vợ sau) xin rước vong Ba về Sài Gòn thờ, cho trọn bề hiếu đạo.
Lúc đó, con trai lớn tôi mất mới nửa năm, mỗi ngày dọn cơm tôi vẫn gọi hồn cháu về ăn, không mời Ba vì tôi nghĩ dưới quê đã cúng cơm hàng ngày rồi… Đến bốn mươi chín ngày cúng thất tuần cho Ba, Ba tôi về, bước vào nhà xá Bàn thờ Phật ba xá rồi quay lưng đi ra không nói gì đến tôi! Tôi gọi lại han hỏi xem ba có thiếu thốn và cần thiết gì không, Ba nói có một câu rồi đi: “Nếu có thể thì con giúp Ba, Ba hiện đang ở cửa ngục thứ bảy, bị tra tấn đau đớn lắm!”. Tôi nghe vậy khóc ròng…
Từ ấy trở đi tôi tụng Kinh Cầu siêu cho Ba. Khi bắt đầu tụng kinh, tôi xin phép đưa phần Linh Điển của mình tới tận cửa ngục thứ bảy để tụng một thời Kinh Siêu độ, cầu cho tất cả các tội nhân trong ngục ấy cũng được nghe để phát tâm tu trì hầu tiêu tan nghiệp chướng, được đầu thai trở lại làm người!
Suốt thời gian tụng kinh, tôi luôn thấy mình ngồi giữa một hành lang tối đen, hai bên là tường thành bằng sắt cao ngất không tìm thấy cửa. Có lúc Vía tôi thấy mình mò mẫm đi tìm, áp tai vào thành sắt mà chẳng nghe động tĩnh gì, chỉ có sự im lặng lạnh lẽo cùng tiếng kinh tụng từ miệng tôi vang lên nghe rõ mồn một giữa chốn không người…
Trong một tuần liền, tôi bị đau nhừ nhẫn. Thỉnh thoảng chừng mười lăm, hai mươi phút lại nghe một luồng đau rát và nóng buốt vút qua ở sau lưng, y như có ai cầm roi nung lửa mà đánh, đau rát và nóng đến kinh người… Tôi sợ quá nói với Má: “Chắc con bị ung thư xương!”, Má tôi bảo đi bệnh viện xét nghiệm kẻo rồi bệnh chuyển nặng không kịp chữa!
Tối hôm sau, khi tụng kinh tôi quên khuấy lời khấn “Đưa phần Linh Điển tới tận cửa ngục”. Thế là sáng hôm sau hết đau! Nghiệm lại tôi biết mình đã chịu đau thế cho Ba…
Đến rằm tháng bảy - tôi cúng cơm chay và kết hợp chiêu đãi phần âm! Ba tôi về, vui cười Bảo tôi: “Ba được lên cửa ngục thứ Ba rồi, cảm ơn con”. Từ đó, mỗi lần cúng cô hồn hàng tháng, tôi lại xin cho Ba tôi và con trai về làm chính chủ đứng ra phân phối lộc thực để tạo công đức mà “đoái công chuộc tội”. Tôi cũng khấn xin quy công đức chữa bệnh, giúp người từ giờ trở đi cho Ba tôi để xin giải nghiệp cho Ba… Sau ngày giỗ hai năm của Ba, đêm ấy tôi nằm mơ: tôi thấy mình đi làm công quả ở Chùa - chỉ có một mình làm đủ thứ chuyện nặng nhọc, nào đắp đường, nào nhổ cỏ trồng cây… Mãi đến chiều tối mệt lã, tôi vào Chùa chào Sư Cô Trụ Trì nói: “Con làm xong việc rồi, thưa Sư cô con về”. Lúc ấy Sư Bà đang nằm trên giường bảo: “Con thấy gì không Lan? Ba con ngồi trên bàn đà đang cười kia kìa!”. Có thế, tôi giật mình tỉnh giấc… Từ “Bàn đà” hoàn toàn lạ lẫm với tôi, nhưng nghe nói Ba cười là tôi biết có tin vui cho Ba rồi!
Từ hôm ấy trở đi Ba tôi được mãn hết tội, về ở tại nhà tôi. Mỗi bữa cơm tôi chỉ ăn một mình một bát, nhưng dọn năm bát năm đũa mời Ông Bà Nội, Ba tôi và bé Tí, bé Thiên An, và cho những âm vong bị nhốt trong KTT ăn… Có điều lạ là âm hồn trong ấy tự bốc ăn bằng tay, không dùng bát đũa - Tôi đưa mâm thức ăn vào, họ thò tay ra bốc ăn, chén bát không sờ đến, tiếng những ngón tay khua xuống bàn nghe y như tiếng gà mổ thóc vậy!
Tôi cũng thấy mình chẳng giống ai, mỗi buổi cơm một mâm chén bát, ngồi bên mâm cơm nói láp giáp một mình - Đúng là “sống cùng cõi âm”, mãi rồi quen tật không còn muốn bước ra đường, bạn bè không có, các cuộc vui cũng từ bỏ, chỉ thích tịch lặng một mình!
Tôi làm mọi việc không phải vì mê tín, bởi tôi đã tận mắt nhìn thấy âm phần ăn uống chi dụng được những thứ mà cõi thế tài trợ, tôi cho họ ăn chỉ vì lòng nhân đạo đấy thôi! Có lúc tôi quên, lại nghe văng vẳng bên tai: “Cho Ba ly nước!” (vốn Ba tôi có tật vừa ăn vừa uống).
Có lần tôi nhận quyết định làm chủ nhiệm CLB thơ Đồng Vọng, về nhà vừa làm việc vừa nhớ lại cuộc họp công bố quyết định lúc sáng… Bỗng nghe tiếng ba tôi vang lên sau lưng: “Con Sáu Núi mà vừa gì!”, kèm theo một trận cười sảng khoái của Ba.
Ba tôi xưa kia là Hiệu trưởng trường làng, Má tôi cũng là cô giáo. Ba Má hồi mới yêu nhau làm thơ cho nhau nhiều lắm! Nay con gái Ba làm thơ giỏi, chắc Ba cũng mãn nguyện rồi…
Thôi, chắc tôi kể về mình cũng nhiều rồi, xin tạm ngừng ở đây, chúng ta sang chương khác vậy nhé!




37. THỰC HÀNH CỤ THỂ (09)


* Cô T. (ở kế bên nhà) có đứa con gái nhỏ lúc đó chừng ba, bốn tuổi. Suốt từ lúc sơ sinh đến giờ, có bệnh lại đưa sang tôi…
Mấy ngày liền, bé đòi Ba bế lên đặt ngồi trên trụ cổng trước nhà chơi, độ vài lần như vậy thì bị – nói nôm na là “bị phạt”!
Ông bà xưa nói hai bên trụ cổng có hai vị Thần Thanh Long – Bạch Hổ canh gác; con bé lên cơn, cứ giật nảy mình, khóc thét lên từng hồi ra vẻ hốt hoảng kinh sợ lắm!
Tôi cho điện trấn an thần kinh thì bé hết, về nhà ngủ lại bị… Đến nửa đêm cô T phải mang cháu sang nhà tôi, cháu mới bình ổn trở lại và ngủ ngon tới sáng!
Cô T người không có bệnh gì, nhưng nước da tái mét như người bị bệnh trầm kha, ốm chỉ còn da bọc xương, tôi khuyên nên đi bệnh viện xét nghiệm, sợ bị lao… Về sau sang tôi chẩn bệnh mới hay bị tà nhập!
Sau khi đẩy phần âm và tà khí ra hết, tôi cho điện bình ổn cơ thể, cô T dần khỏe mạnh, “có da có thịt” trở lại… Cô T theo học nhân điện, nay trở thành người chữa bệnh giỏi và có năng lực về tâm linh cao!
* Cậu Phong (nhà ở cổng chợ Hiệp Thành) – người không có bệnh gì, tự dưng không ăn và ngủ được suốt hơn ba tháng. Bệnh viện không chữa được trả về chờ chết, người chỉ “còn da bọc xương” với hai hố mắt thâm quầng, tay chân run lẩy bẩy và hay bị ngất xỉu, khuôn mặt ai nhìn thấy cũng phải giật mình…
Tôi chẩn thấy Phong bị tà án vào, tôi giải tà xong rồi cho điện vào làm cho ngủ, làm ăn được! Cậu Phong về nhà lúc mười giờ sáng, lăn ra ngủ một mạch đến ba giờ chiều, tỉnh dậy đòi Mẹ mua chuối cho ăn… Phong ngồi ăn hết một nải chuối hai kí, cả nhà lo, cứ sợ trúng thực vì đã lâu không ăn được gì!
Tôi chữa thêm một tuần thì cậu Phong ăn ngủ bình thường trở lại, có điều đôi bàn tay lúc nào cũng run! Tôi xin thầy Hải Thượng về chẩn, thầy nói Phong bị nhiễu “đám rối thần kinh dương”, có thể do một thời gian dài không ăn ngủ được, bệnh này rất khó hồi phục, chỉ cầu may khi khỏe mạnh bình thường trở lại sẽ hết.
Tính đến nay đã mười lăm năm, cậu Phong vẫn còn sống và khỏe mạnh ở chợ Hiệp Thành!
* Cô H. (người Tàu lai ở chợ Hiệp Thành, người tôi đã kể vào quyển một), về sau lấy chồng, có đứa con trai sáu tuổi! Một buổi chiều H đưa con lên nhà tôi bảo: “Con em bị tà nhập tháng rưỡi rồi đi khắp nơi, bệnh viện nào cũng thua! Cứ sốt rồi rét, nói năng lảm nhảm đau nhức khắp người và bỏ ăn bỏ ngủ”!
Tôi trụ thần nhìn, thấy một vong quỷ đàn ông tuổi chừng năm mươi, người chỉ còn bộ xương, trần truồng đứng đó! Tuy ngạ quỷ nhưng vong rất hiền, không có vẻ gì hung dữ…
Tôi tả nhân dạng, cô H chẳng biết là ai! Tôi giải tà và cầm sốt, rét, làm cho cháu ăn được, ngủ được. Hôm sau đưa hai Mẹ con vào nhà, tôi tiếp xúc với vong hồn, chỉ nói được một câu: “Tôi tên Tám!”, tuổi tác, vợ con nhà cửa không biết… Vong ấy bảo mình là anh cô H., nghe vậy H. hứa mai sẽ đem ảnh người tên Tám cho tôi nhận diện!
Cô H về, lúc ấy trời đã sụp tối, tôi đang đứng bên hông nhà, sực nghe sau lưng có tiếng nói: “Thưa cô Hai!”. Giật mình quay lại, tôi thấy vong tên Tám: “Xin cô có gì cho tôi ăn với, tôi đói!”… Tôi vào nhà, đem ra gói bánh ngọt, vong đứng ăn từ tốn, nhẹ nhàng, xong lại nói: “Phiền cô Hai cho tôi ly nước”. Thấy vậy, tôi hứa mai sẽ mời về ăn cơm- Rồi tôi quên khuấy đi mất!
Mãi đến chiều tối hôm sau, lúc tôi đang nấu thức ăn, có một cọng đậu cove đang xào trong chảo rơi xuống đất, xãy thấy có một chiếc bóng chạy vào nhặt lấy ăn - ra là vong tên Tám! Tôi xin lỗi và dọn cơm ra mời vong ăn (lúc đó, tôi chỉ ăn cơm một mình). Tên Tám vừa ngồi xuống, ngước lên nhìn tôi nói: “Cảm ơn cô Hai!”… Đôi mắt xanh lè vừa lóe lên, theo phản xạ tôi tống cho một đấm, vong ấy văng ra ngoài! Bước vô nhà, vong nói: “Tôi đâu có làm gì, sao cô Hai đánh tôi?”. Tôi xin lỗi: “Tại ông nhìn tôi làm tôi sợ, thôi ông cứ ăn một mình rồi đi nghe”. Lúc đó tôi như người sắp xỉu, bế tim, lê được vào buồng ngồi thiền độ năm, mười phút sau mới trở lại bình thường!
Những âm vong ngạ quỷ, yêu tinh có đôi mắt màu đỏ hoặc màu xanh. Nếu ta tình cờ nhìn thẳng vào mắt sẽ bị khí âm truyền sang làm cho loạn thần, bế tim ngay lập tức…
Qua ngày sau, H đem ảnh người tên Tám lên, nhìn tấm ảnh lúc còn sống mập mạp và tươi cười, tôi lắc đầu: “Không phải người này!”. Cô H đưa tấm ảnh lúc chết nằm trên giường, nhìn vào giống y hệt âm vong, không sai khác chút nào! Tôi xin Mẹ về trợ Điển để cho vong tiếp xúc với cô H.
Mẹ về hỏi vong vẫn không biết gì hơn! Mẹ giải thích: “Những vong chết do bệnh dữ hoặc nạn tai, trước lúc chết đau đớn quằn quại, thường vướng nghiệp ngạ quỷ thành vong điên, không còn nhớ gì, đa số là hồn xiêu phách lạc”…
Mẹ lấy tấm ảnh đưa tới trước mặt, đặt bàn tay lên trán tên Tám, buông ra, vong tỉnh ngay lập tức khai tên tuổi đàng hoàng, và nhắc lại những điều từ trước chỉ có hai anh em biết! Cô H tin đúng người, xin tôi cho cúng chiêu đãi âm vong một lần để chuyển vào Chùa tu (nghe chị em tôi thuyết phục, vong đã bằng lòng đi tu!). Âm vong xin được ăn những món mình thích lúc còn sống…
Ngày sau lúc sáu giờ tối, cô H  cùng tôi cúng một mâm cơm. Cô H. mua một chiếc áo giấy màu đà, tôi bảo H. đưa ra tận ngoài ngỏ đốt! Vía tôi thấy tên Tám bước vào nhà xỏ áo, cài khuy, trên áo có một cà vạt màu xanh dương… Tôi hỏi thì H. xác nhận đúng là trên áo có cà vạt xanh! Từ đó tôi mới tin rằng âm hồn sử dụng được những đồ “hàng mã” và tiền, vàng âm của người trần cúng cho!
Từ kinh nghiệm này, về sau mỗi tháng tôi cúng chiêu đãi phần âm một lần, mời các âm phần từ khắp nơi tụ về để phân phối lộc thực… Trước khi cúng cho ăn, tôi án chữ Vạn của nhà Phật lên trán từng âm vong một, vừa dụ dỗ vừa đe nẹt: “Phần âm nào có An Phật ở giữa trán mỗi tháng sẽ trở về đây lảnh lộc thực một lần, có ăn đầy đủ trong một tháng, không còn bị đói rét hay thiếu thốn nữa! Ăn xong phải tu tỉnh tìm đến đình Chùa miếu mạo mà nghe Kinh để sớm tiêu tan nghiệp chướng… Nếu ai phá khuấy chọc ghẹo mọi người thì An Phật sẽ hành cho đau đớn, nghe chưa!”
Họ có ăn không thiếu đói thì mới biết tu, ta gọi là “phóng tài hóa thu nhân tâm” vậy mà!
Phần vong tên Tám, vài tháng sau cô H lên nhà tôi, chưa kịp chào hỏi đã thấy vong một vị sư đầu cạo trọc mặc bộ đồ màu đà bước vào! Vong ấy xưng pháp danh là “Thiện Nhẫn Thiền Sư”, chính là vong tên Tám, biết cô H. tới nhà tôi nên tìm tới chào, đổi giọng xưng hô là “Tôi, cô”, không còn “anh anh, em em” như trước nữa…
* Cô Tiến, khi học nhân điện còn ở lớp thấp, thường xuyên bị vong về quấy phá liên tục… Có lần đi chơi Bình Dương hai ngày, vừa về tới nhà đã bị chóng mặt và nhức đầu, nôn mửa rất nặng… Sang tôi chữa bệnh, vừa đưa điện vô ngay lập tức lên cơn nôn gấp, tiếng ụa mửa vang cả nhà, nghe mà phát rùng mình!
Nghi Tiến bị vong phá, tôi dùng điện giải phần âm, Tiến lại ụa dữ dội tiếp… Biết không phải là vong thấp, tôi xuống giọng năn nỉ, xin lỗi và mời ra tiếp xúc, thì ra là một vị Thần ở chân cầu! Tôi bảo: “Tôi xá ngài một xá xin thứ lỗi vì tội sơ ý đã mạo phạm, để tôi bảo em tôi về quỳ giữa nhà lạy ba lạy xin ngài xá tội và rời đi. Để tối nay cô ấy làm ca đêm, có mệnh hệ nào chết bỏ con thì tội lắm!”
Cô Tiến về quỳ giữa nhà, lạy xong thì dứt hẵn… Lúc đó đã tám giờ ba mươi đêm, đến chín giờ ba mươi Tiến đi làm cả đêm hoàn toàn bình thường, không có chút di chứng nào!
Vậy đó, kẻ “thấp cổ bé miệng” phải xuống giọng năn nỉ, cầu xin nếu không muốn bị bức hại. Lúc đó vong Thần đang ở trong xác, nếu ta xúc phạm thì họ hành xác nặng nề hơn! Chỉ khi nào dụ được họ ra khỏi xác, ta mới bắt được…
Phải nói là đáng sợ! Thế lực của tà giới tác động lên người trần thế, khuấy đảo hành hà xác trần, các phương tiện y học hiện đại cũng đành bó tay bất lực! Hèn gì có người nằm hết bệnh viện này đến bệnh viện khác mà bệnh vẫn hoàn bệnh.
Người thiển cận vô tư ỷ lại vào các phương tiện khoa học tinh vi, cho rằng có sức mạnh vạn năng, đâu biết chỉ một cái búng tay của cõi khác đã đủ làm ta khốn đốn…
Chúng ta, những con người đứng chân trên mặt đất, tưởng chừng “vững như bàn thạch”, nào hay đâu chỉ một trận cuồng phong đá chạy cát bay, những thành quả bao năm gầy dựng có thể tan thành tro bụi… Loài người bé nhỏ và bất lực trước sức mạnh vô hình của cõi giới khác, chỉ cần liên tưởng đến thế đứng chênh vênh ngoài rìa quả địa cầu đã thấy ngay những lầu các, đền đài cũng chỉ như bọt biển. Nếu mốt mai lực hút của trái đất này không còn nữa, chúng ta sẽ về đâu?
Đâu phải chỉ một lần “Thế gian biến cải vũng nên đồi”, trái đất này đã bao phen rơi vào cơn “Đại biến di”, tiêu tan tất cả để rồi tái tạo lại từ đầu đấy thôi. Chúng ta hiện diện ở đây ngày hôm nay, liệu ngày mai còn có ta không giữa cơn hồi sinh mới, khi vũ trụ rùng mình đổi thịt thay da…
Vẫn còn, còn một “Quy luật bất thành văn”, luật của lẽ công bằng tạo tác và hành xử, luật của “cái Quả sinh ra từ cái Nhân”, không có nhân làm sao có quả!
Ta gieo một hạt ớt, hạt xoài, mốt mai nên cây trổ trái, ra hằng trăm, hàng vạn trái xoài, trái ớt, trái cay đắng hay ngọt bùi cũng là trái ta trồng đấy thôi… Thế thì sao chẳng cân phân để chỉ gieo nhiều quả ngọt, trái lành, gạn đục khơi trong để mai kia dòng trong ta hưởng!


36. LUYỆN TAY NGHỀ



Trong suốt quá trình chữa bệnh, cho dù được nguồn “ân cứu” từ các Đấng, tôi vẫn luôn mày mò nghiên cứu, tìm hiểu để nâng cao trình độ và phương cách điều trị, sao cho mỗi ngày một hiệu quả hơn…
Từ ngày anh K (người anh kết nghĩa mà tôi đã kể vào đoạn trước) tặng cho tôi quyển “ATLAS Giải phẫu người” đến nay, tôi chữa bệnh tốt hơn nhiều!
Qua đó, tôi tập làm quen với các phần chi tiết cũng như cơ quan nội tạng của con người, tập nhìn và đưa hình ảnh vào não bộ, cho đến khi nhìn thuần thục, nhắm mắt lại có thể thấy ngay từng cơ quan một, rõ ràng như đang nhìn hình ảnh trên trang sách… Đưa “bàn tay nhân điện” (là bàn tay vô hình do tôi tự luyện bằng cách nhìn bàn tay của mình) vào tận nơi thăm khám, nghe ngóng cho đến khi tìm thấy trục trặc hoặc Tổn thương. Sau đó đưa điện đi đến chỗ đau giúp luân chuyển máu huyết, thần kinh, tái lập cân bằng hoặc trừ ổ viêm, giảm đau…
Bằng cách này, bệnh sẽ chuyển nhanh hơn là cứ đưa điện “hú họa” vào chỗ đau đủ thời gian quy định rồi thôi! Tôi tự nghiên cứu, tìm hiểu và thử nghiệm trên nhiều bệnh nhân và nhiều loại bệnh, kết quả rất phấn khởi! Từ đó tôi phổ biến kinh nghiệm lại cho các chị em trong nhóm của mình. Tôi sẽ trình bày kết quả với bạn đọc vào chương sau!
Năng lượng còn gọi là “Điện” được điều khiển theo ý của người chữa trị, bằng luân xa 6 ở giữa hai chân mày (huyệt An đường) chuyển giao cho người bệnh. Đầu tiên điện phải đi qua LX7 ở giữa đỉnh đầu (huyệt Bách hội) sau đó mới lần lượt đưa vào chỗ đau… Điện tùy thuộc vào người điều trị, khi nào “thấy đủ” là thôi, không hạn chế thời gian và cũng không có tác dụng phụ (chỉ có tác dụng tích cực chuyển biến bệnh hoặc không mà thôi)
Phương pháp sử dụng nhân điện có lợi thế là không cần dùng thuốc hoặc các phương pháp hỗ trợ, không kiêng cữ về ăn uống… Nếu muốn, ta có thể điều trị song hành với các phương thức khác của Đông hoặc Tây y, chỉ làm tăng kết quả, không có ảnh hưởng nghịch chiều, với điều kiện là ta cho điện hỗ trợ vào thuốc uống hoặc công cụ điều trị để cắt tác dụng phụ và tăng tác dụng điều trị!
Từ “bàn tay vô hình” của các Đấng, tôi đã vận dụng một cách cẩn trọng, sáng suốt và khoa học để tạo nên sức mạnh cho mình, không sa vào chỗ mê tín hay cuồng tín! Bằng cách rèn luyện kiên trì và có hệ thống, tôi đã khám phá và phát triển thêm khả năng tiềm tàng của bản thân, để trở thành một người thầy chữa tốt, tất cả cũng chỉ vì tấm lòng tha thiết muốn bằng mọi cách làm giảm nỗi đau, tật bệnh cho mọi người…
Bề Trên chỉ cho tôi năng lực, phần tôi phải tự rèn  luyện để năng lực đó trở nên dũng mãnh. Ít ra tôi cũng có điều tự hào là không để cho các Đấng “nhắm mắt dắt tay”. Tôi cũng tự mình bước đi đấy thôi! Và các “nguồn ân cứu” chắc cũng mãn nguyện vì đã chọn một học trò, đệ tử như tôi… Mặc dù những lúc bị “hành căn” nhiều quá, tôi cũng oán thán hay uất hận: “Tội nghiệp nó! Nó làm việc không công lại còn bị đòn hoài nên trở nên lì lợm, bướng bỉnh cũng phải thôi!”
Nếu khả năng thăm khám cao, khi đưa điện ta có thể thấy ngay kết quả là bệnh hoặc cơ quan bị đau có tác động được hay không, chuyển biến nhiều hay ít, thực như nhìn thấy bằng mắt thường vậy!
Nhưng nói thì dễ, thực hành lại rất khó. Những người thiếu kiên nhẫn thường không đạt được kết quả khả quan, ngay đến người có tự tin cũng dễ bị lừa. Bởi những kết quả sai lạc do thiếu cẩn trọng hoặc bị “mà mắt” bởi các âm phần án vào cơ quan bị bệnh, tạo ra một “hiện trường giả”! Vì điều này tôi phải lắm phen giở khóc giở cười với những người học viên của mình trong khi quá trình thực nghiệm mỗi người được báo một kết quả khác nhau, không đúng như bệnh tình thực thụ…
Tác động chuyển biến bệnh tùy thuộc nhiều vào khả năng thăm khám của người thầy chữa. Huynh trưởng nhân điện (A.Ch) vẫn bài xích phương pháp nghe ngóng bệnh của tôi và các chị em bên nhánh mà tôi tự đào tạo, vì không giống cách mà Thầy đã phổ biến… Tôi bào chữa: “Em chữa bệnh từ hai chục năm nay bằng cách của riêng mình, học nhân điện mới chín năm, học để bổ sung thêm vậy thôi. Thầy, Tổ cũng như các Đấng không rầy rà hay trách cứ gì em, thế là được rồi, nếu em làm sai phương pháp thì bệnh nhân đâu có hết bệnh!”
Quả thế thật! Từ ngày học thêm nhân điện tôi chữa bệnh ngày một tốt hơn, có ngày tới ba mươi bệnh nhân. Chiều tới xe máy để chật sân nhà, người bệnh ngồi chờ tới lượt… Điều tuyệt vời mà tôi được kế thừa từ Tổ, Thầy nhân điện là phương pháp chẩn và chữa bệnh gián tiếp qua hình ảnh và qua điện thoại: dù ở xa, chỉ cần nghe tiếng nói của bệnh nhân, tôi hỏi bệnh, bảo bệnh nhân trụ thần nghĩ đến chỗ đau, yên lặng và nhắm mắt… vậy là tôi nghe báo động từ các cơ quan tương ứng của mình bằng nhiều cảm giác khác nhau: đau nhói từng cơn, co giật nhẹ hoặc khó chịu, đau “lâm râm” hoặc căng tức bất ổn… khi chuyển điện vào chỗ đau, tác dụng không thua gì chữa trực tiếp!
Có điều buồn cười là đôi lúc chẩn báo đau có tính cách đối diện: bệnh nhân đau mắt trái tôi được báo ở mắt phải, hoặc lỗ tai, mũi, miệng hay răng... Thường lúc kiểm tra lại, tôi phải đặt mình vào vị trí đứng ở sau lưng bệnh nhân, thì khi chữa điện mới đưa vào đúng chỗ đau!
Chữa gián tiếp còn một điều khó nữa là cả người điều trị và bệnh nhân đều phải tập trung cao độ, chung quanh không được có tiếng ồn hoặc hình ảnh chuyển động làm cho bệnh nhân bị phân tâm. Người thầy chữa cần đạt đến độ “ngưng thần” và “truyền thần” tuyệt đối! Chỉ cần thiếu tập trung là điện đưa đi bị gián đoạn, không có kết quả khả quan.
Khi bệnh nhẹ và sắp khỏi, bệnh nhân đã quen tập trung nhận điện, tôi hẹn giờ và để bệnh nhân tự nhận điện một mình, không sử dụng điện thoại nữa! Để trừ hao, tôi hẹn bệnh nhân ngồi nhắm mắt trụ thần nghĩ đến chỗ đau trong năm phút, thế là xong!
Cách điều trị có kết quả tốt nhất là tôi được tiếp xúc thăm khám bệnh nhân một lần. Lúc đó tôi hay hỏi lần khân: “Anh (hay chị) bao nhiêu tuổi, làm nghề gì? Con cái, gia đình thế nào? Hoàn cảnh có đủ ăn hay không? Sinh hoạt và làm việc nhẹ nhàng hay nặng nề? Bệnh phát bao lâu, diễn biến thế nào? Đã điều trị ở đâu, kết quả ra sao?”… Từ đó quá trình chẩn đoán và điều trị dễ dàng hơn, dựa vào hoàn cảnh, tâm lý và chế độ sinh hoạt của cá nhân người bệnh!
Tôi rất mê nghiên cứu, tìm hiểu về “chuyên ngành” của mình, ở đâu có tài liệu về bệnh là tôi tìm tới, đem về đọc, tự tìm hiểu và phân tích rút ra kinh nghiệm cho bản thân… Ngặt nỗi trình độ thông minh có hạn và trí nhớ thì trì trệ nên đọc xong rồi chữ nghĩa bay đâu mất, tôi chẳng còn nhớ được mấy!
Danh ngôn có câu: “Cái đầu không trí nhớ như một mảnh đất thiếu đồn binh”. Tôi vẫn tiếc: nếu thông minh và có trí nhớ hơn một chút, chắc sẽ chữa bệnh giỏi hơn nhiều!
Sự hết lòng của tôi làm cảm động các Đấng – nên tôi cứ như người “Thầy chữa” thuần thục, thăm khám bệnh và điều trị đều tốt! Những gì tôi nhìn thấy qua những cuộc thăm khám bằng con mắt của tâm linh làm tôi hết sức ngạc nhiên.
* Người vừa qua một cơn nhồi máu cơ tim khi tôi cấp cứu năm phút sau thì tỉnh lại, bị liệt nửa bên người! Tôi chữa thêm một lần nữa, cử động được tay chân… Trong suốt thời gian hơn mười ngày sau người bệnh vừa đi Bác sĩ vừa điều trị thêm bằng nhân điện, khi thăm khám tôi thấy quả tim như một quả bóng bị non hơi màu nâu sẫm (không đỏ và tươi nhuận như bình thường) sờ vào có cảm giác mềm nhão và xôm xốp chứ không căng chắc, no đầy…
* Có người bị chứng giãn ruột, nhà ở tận Nam Định, là Mẹ vợ của bác sĩ Cự - Người nhà mang một tấm ảnh cho tôi chẩn bệnh và liên lạc bằng điện thoại!
Khi chẩn bệnh, tôi cho “ngón tay nhân điện” vào cổ họng rồi lần xuống thực quản, bao tử, vô đường ruột… Đến đoạn cạnh cuống rốn tự nhiên thấy ngón tay bị hẩng một khoảng độ chừng năm phân. Tôi hỏi gia đình bác sĩ, được xác nhận là đoạn ruột bị giãn trong ảnh chụp ở bệnh viện nằm đúng như tôi đã chẩn…
Phần ruột bình thường ngón tay lần vào chắc và đầy, đoạn bị giãn lại giống như phần ruột đã bóc hết niêm mạc bên trong, còn trơ lớp da ngoài! Lần đó, tôi chữa được một tuần thì bà cụ hết đau bụng và ăn uống trở lại bình thường!
* Ơ tại chỗ bị đau như khớp hay cơ bắp chẳng hạn, tôi thấy điện không đi qua được! Đến đó thì dòng điện bị chững lại hoặc lướt vòng bên cạnh chỗ đau đi xuống… Những lúc như thế tôi cho bàn tay nhân điện xoa vuốt nhẹ nhàng rồi mới kích thích cho các mạch máu lưu thông. Nếu thấy điện đi xuyên qua chỗ đau được, tôi biết chắc chắn sẽ giảm đau trong lần điều trị đó, bằng không thì… thua!
Trong quá trình chữa bệnh, tôi linh động tìm mọi cách để đạt kết quả như ý muốn. Phương pháp chữa gián tiếp hay truyền thần có điều hay là: nếu trụ thần thực vững, ta có thể điều khiển bệnh nhân theo một tư thế phù hợp để dễ nhận và luân truyền dòng điện.
Ví dụ: Qua điện thoại, nếu người bệnh nặng không thể ngồi dậy được, tôi chuyển thần thức của mình đến bên cạnh dìu bệnh nhân ngồi lên và đưa tay chuyển điện vào đúng nơi cần thiết…
Khi cần phải học hỏi một điều gì đó, tôi không thể nào ghi nhớ được gì cho ra hồn! Loay hoay đến khổ sở, tự mắng mình: “Ngu gì ngu dữ vậy trời!”… xong rồi vứt sách đâu mất - Vậy mà đến khi cần thiết, những kiến thức từ đâu tuôn ra chẳng biết, khiến ai nghe cũng phải khen! Lúc khác, cái đầu tôi đặc sệt, chẳng nảy ra được chút gì, hình như nó chỉ giỏi khi cần thiết mà thôi, ngoài “chuyên môn” ra thì tôi “dốt đặc”!
Các con tôi luôn phải than van về trí nhớ kém cỏi của Mẹ. Bé Chi, con gái út mười lăm tuổi của tôi, ngay từ lúc chín, mười tuổi đã là “bộ óc bổ sung” của Mẹ: bé có thể nhớ danh dách hơn một chục số điện thoại, từ di động tới điện bàn. Hễ tôi cần tìm vật gì cứ hỏi, bé Chi nhớ ngay chỗ đặt vật ấy! Mãi rồi tôi có thói quen ỷ lại: “Chi, nhớ lời Bà ngoại dặn Mẹ nghe!” hoặc “Sáng thứ ba tuần tới nhắc Mẹ đi họp Hội Thơ”, “Mở máy tính cho Mẹ đánh chữ coi Chi!”, “Chuyển kênh dò sóng truyền hình cách nào, Chi”.
Con bé thì cứ như một chuyên gia có hạng, mày mò, khám phá các chức năng của máy móc, vật dụng trong nhà, để rồi khởi động sẵn sàng dành cho Mẹ…
Phải chăng khi các Đấng chuyển Điển về nhập vào thần thức của tôi đã làm cho trì trệ khả năng tư duy của bản thân, để nó trở nên ù lì, chai cứng dần… và giống như người bệnh quen thuốc, nó chỉ linh hoạt khi có Điển “nhập thần”.
Từ chiếc Kim tự tháp nhỏ xíu mà chúng tôi bắt đầu học sử dụng từ lớp sáu - Tiến lên một bước, tôi có K.T.T vô hình của bản thân (K.T.T tượng trưng cho năng lực của não bộ: năng lực tập trung, năng lực điều khiển, là khả năng hợp nhất với các Đấng). K.T.T giống như một “bảo bối” của người “Hành giả nhân điện”, cùng với năng lực trợ cứu của Thầy, Tổ!
Nếu một người bệnh có “tà nhập”, chúng tôi dùng KTT bắt nhốt các âm vong, xong chuyển điện giải tà phép, rồi sau đó mới bắt đầu quá trình chữa bệnh… Bệnh do “trúng tà”, nếu không giải hết tà phép ra, ta không tài nào chữa được, bệnh còn trở nặng hơn do các thế lực tà chống đối!
Trong các loại bệnh, tôi sợ nhất là loại do phần âm nhập vào phá, rồi “đau nam chữa bắc”, được người nhà đưa đến thầy bùa, thầy Pháp… Hết thầy này đến thầy khác, mỗi vị thầy án vào cơ thể đạo bùa cùng với mười hai binh gia (nếu bệnh nặng thầy cho hai đội - hai mươi sáu binh!). Nhiều đạo binh vào trong cơ thể chống phá lẫn nhau, thể xác con người trở thành bãi chiến trường, lúc đó, thầy cao tay cũng còn phải sợ!
Tôi đã nhìn thấy nhiều bệnh nhân như vậy: xét nghiệm đủ các nơi vẫn không tìm ra bệnh. Rồi bác sĩ dựa theo chứng mà điều trị, thuốc uống vào không có tác dụng, hoặc có nhiều tác dụng phụ như: rối loạn dạ dày, gan, thận. Gây chứng chóng mặt, hoa mắt, nhức đầu ù tai, buồn nôn, đau bụng, phù nước… Ôi thôi đủ chứng, đủ tật- một bệnh hóa ra bốn, năm bệnh khác!
Đến lúc bệnh đã quá nặng, đưa tới tôi, tôi chữa được cũng “trần ai”, và bị “đau thế, đau trả” rất dữ…
Tuy KTT vô hình nhưng năng lực tác dộng dõng mãnh lắm, tùy thuộc vào khả năng tự khám phá và rèn luyện của bản thân. Người thầy chữa bệnh bằng nhân điện có giỏi hay không là do tự rèn luyện hơn được truyền dạy từ thầy. Do đo cùng một cấp lớp, có người này giỏi hơn người khác, tất cả đều do “cái Tâm” mà ra!
Tôi luyện được nhiều cách sử dụng từ KTT: phủ trường bảo an cho bệnh nhân và giường nằm, phòng ngủ hoặc toàn bộ căn nhà (sau khi đã trục hết âm vong), cách giải phần âm, binh gia, xóa lệnh phù… và cách điều trị, đưa điện luân chuyển theo ý mình: xoa vuốt, day ấn, dẫn lưu máu huyết, thần kinh hoặc cô lập mầm bệnh, triệt tiêu vi khuẩn… Còn nhiều phương pháp mà tôi không tiện kể với các bạn ở đây. Xin hẹn lại một dịp khác, giờ xin chuyển sang đề mục mới vậy nhé!



HUYỀN MÔN LƯỢC KÝ
TẬP 2


THAY LỜI TỰA


Nhiều người bảo tôi: sao không viết Huyền Môn Lược Ký bằng giọng văn “cao” hơn một chút, để cho quyển sách có giá trị hơn – dễ đi vào lòng người tri thức!
Thưa rằng: quyển sách của tôi viết cho đại chúng, dành cho đại chúng – và đại chúng thuộc về giới bình dân… Tôi viết cho những người, vì những người khốn khổ – những người mà cuộc sống đầy dẫy nạn tai, tật ách và bất hạnh! Những người yếu thân cô thế đến gần như bị “Thượng Đế lãng quên”. Tôi vì họ gióng lên hồi trống kêu oan, cầu cứu… Như chú cóc nhỏ bé kia gióng trống kiện trời.
Nếu không có người kêu oan, làm chi có kẻ được giải oan. Không có kẻ chịu hy sinh, làm sao có Thánh Lễ?
Tôi viết bằng lối văn tự sự chân phương – như dẫn dắt người đọc bước đi trên con đường đời mộc mạc, ngắm cái Quả kết ra từ cái Nhân của vạn vạn sinh linh – Để tự nhận chân: quả đắng hay ngọt cũng tự tay ta gieo trồng mà co, mùa bội thu cười khóc… trách gì ai!
Nói theo nhà Phật: chỉ cần ta biết sám hối, thành tâm sám hối, gieo Nhân lành sẽ diệt được Nghiệp dữ. Tôi là người tự nguyện hỗ trợ – trong một thời gian nào đó, trong một chừng mực nào đó, rồi thôi!
Khi bạn đã đứng lên được, xin hãy cứ bước đi – đừng quay lại sau lưng… Bước những bước vững chãi đi về phía trước! Bạn đã nhận được sự dìu đỡ tự nguyện, thì xin hãy phóng tâm vì người khác – những người bất hạnh hơn mình, đang lặng lẽ chìa đôi bàn tay cầu cứu và chờ đợi!
Đừng ngoảnh mặt quay lưng như cây cột chỉ đường kia, mang trên mình những dãy số mà không hề đi qua, từng trải…
Không như những nhà thuyết lý biện chân rao giảng cho những giáo lý trừu tượng cao xa ngoài tầm tay với – Tôi chỉ là “Người – Thừa – Hành” của nhà Phật, trộm ấn Tiên phong đem vá víu cuộc đời… thêm một viên gạch kê cho bằng khập khiễng, một tấm lòng sẻ chia cho vơị bớt đau thương…
Không cứ là Đạo Giáo, tín ngưỡng nào nếu có những tôn chỉ, giáo điều đặt đạo đức và nhân tâm con người lên hàng đầu – đó là Chính đạo! Tôi cúi đầu tuân phục trước những người và Đạo Pháp vi diệu, cao thâm ấy! Cũng như tôi sẵn sàng ngồi xuống vuốt ve ngon cỏ dại kia nếu chúng dịu dàng êm mát bàn chân, nhẹ nương cho một phút ngã lưng của người khách độc hành đường xa mỏi gối… Hơn trầm trồ thán phục cây cổ thụ hùng vĩ vươn tàn che một khoảng đất rộng – nơi mà dưới chân nó ngay một ngọn cỏ dại cũng khó tồn sinh!
Trong thời buổi “thế đạo suy đồi” này, nếu chỉ biết lo Tu thôi thì chỉ là phiến diện! Trần ai oan khuất trùng trùng, nếu cứ cắm đầu lo Tu phỏng có ích gì?! Cao lắm là cứu được bản thân mình, lánh đời như thế chẳng phải là vị kỷ lắm sao!
Bụi trần vương khắp nẻo, ta e sợ vướng bụi trần rồi lấm lem thần xác, ta trốn vào một góc lo Tu! Thế thì khác nào pho tượng bằng đất nung kia chỉ nhắm mắt thiền định – đâu biết chung quanh ta đau khổ ngập tràn…
“Một suối Giải oan bé cỏn con
Muôn vàn oan khuất vẫn đang còn
Giải được oan không, ơi suối nhỏ
Đó đây da diết tiếng kêu oan!”
“Suối Giải oan” - thơ của Thiếu tướng – Tiến sĩ Nguyễn Chu Phác, chủ nhiệm bộ môn Cận tâm lý, trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người.
Ngay một vị Tướng quyền uy cũng thấy mình bé nhỏ và bất lực trước muôn vạn oan khiên, thì liệu có ai đó, giữa chăn ấm nệm êm chợt nghiêng tai lắng nghe hơi gió rét buổi đông tàn, thương cho kẻ thân trơn còn đắm mình trong dầy dạn gió sương ngoài ngõ… Bên bàn tiệc xa hoa phù phiếm, có một giây nào đó chạnh lòng nghĩ đến giọt mồ hôi rơi trên vạt sắn, nương khoai?
Một chút ân cần đủ làm vơi dịu nỗi đau, một nắm tay cảm thông san bằng bất hạnh, một tấm lòng vị tha như suối nguồn An tịnh, cánh hoa Vô ưu nở ra trên nguồn cội úa tàn.
Mong lắm thay!

Tháng 11 năm 2009
Tác giả
NGUYỄN THỊ THANH LAN

Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2014

35. SỰ XUẤT HIỆN CỦA CÁC PHẦN LINH ĐIỂN LIÊN ĐỚI (1)



* Quan Thánh Đế (1): Con trai th hai ca tôi, thng bé tui Bính Dần! Lúc nh my ln chết đi sng li. Có ln leo lên cây điu té t trên cao xung nm xỉu 1 lát sau mi tỉnh li, người không có xây xát gì - Có ln nó leo lên trn nhà, té t độ cao 2 mét xung, cũng ngt xỉu 5 phút ri tỉnh li bình thường - Có ln té đập đầu vào cnh bàn ngt đi, 10 phút sau tỉnh dy, bo: "Nãy giờ s Me ry nên con gi ng!". Thu nh nghịch ngm hết biết, chuyên leo lên nóc nhà, ri ln đi theo gờ tường, y như người học làm xiếc - Người ta học xiếc có phương tiện bo tr - Còn Ti làm xiếc trn c M s bị đòn!
Ln nào nghe ai đó k li tôi cũng "hn phi phách tán". Sau khi học nhân điện, thỉnh thong lúc thin để nhn năng lưng Ti hay thy có 1 mũi tên màu đỏ như la xuyên vào đỉnh đầu đau but, sau đó năng lưng đổ v rt mnh!...
Đến mt ngày - Linh căn Thy ca Ti xuất hiện. Út Tho (em tôi) đang ngi bàn cơ, thy có người v xưng là Quan Thánh Đế! Ngài bo phn Linh căn ca Ti là "đệ t rut" ca mình. Nghe vy, tôi mi v để xin tiếp xúc - Người xưng: "ta là Quan Thánh Đế, hiệu là Th Quán Thin Sư!". Tôi hi thì ngài bo mình không phi là Quan Công, Quan Thánh Đế là 1 chc danh ca nhiu người, chỉ có Quan Công hiệu riêng gọi là Quan Thánh Đế Quân!
Thy của Ti mt đỏ, râu rìa hàm én mày ngài, mc đồ võ phc cũng màu đỏ - Người nóng ny, nghiêm trang và khc nghit! Ông i vi Ti là mình không thích tiếp xúc vi đàn bà, con gái, và không thích lui ti cửa ThinMi đầu ti nhà tôi đứng ngoài sân, quay mt ra đường mà ni vng vào, v sau cũng nht định không bước qua ngưỡng cửa…
Sau tôi mi hiu: đa số các vị Thn đều có tính nóng ny và hiếu chiến, có người nghênh ngang coi trời bng vung - Tuy nhiên cũng có nhiu người rt mc tế nhị, khiêm cung và hoà nhã…
Ngài Thánh Đế thương đệ t của mình lm, nhưng không ưa ch nó ung rượu – Mi khi Ti làm điu gì không hp ý, thy gin trò rt lâu Có điu Thy nương cho tính tự cao t đại của Ti, làm cho tôi cũng bc mình không ít!
Phn âm nào phá phách, Ti đánh cho bò lê bò càngĐến khi chúng hăm he là s tr thù, Ti s chy v mách M kêu cu
Có ln thích "chơi tri", thng bé bt v nhà mt lô lc - toàn ng qu vi yêu tinh, ti để đi lang thang trong nhà chơi! Nửa đêm, vía tôi thy mình v nhà dưới kim tra, gp 6, 7 phn âm Kêu Ti v hi, cháu nói: "Con đem v ti đưa ra nói chuyn, khuyên chng nào h chuyn tâm thì đưa vô chùa tu". Tôi phân tích cho cháu nghe: "Mun phn âm biết tu, trước tiên con phi cho h ăn ung để ly lòng tin – ri ging đạo, tng kinh cho h nghe! Con không ăn cơm nhà dưới đó, không thờ Pht, li không Kinh k. Con khuyến Đạo h bng gì?"
Ln đó, tôi phi đưa 7 phn âm nht vào Kim t tháp đem v nhà trên này. Thường các âm vong hung hãn, quy phá mi người tôi bt nht vào KTT - Ngày 3 bữa cho ăn no, ti cho nghe Kinh. Mi tháng tôi tr t do cho h 1 ln vào ngày rm, cung cp lc thc, n hình chữ Vàn vào giữa trán ri cho h đi! Tôi nói: "Những người được án phép Nhà Pht mi tháng được tr li đây lãnh lc thc 1 ln, và phi biết tu tâm, dưỡng tánh – Nếu ai còn phá khuy người khác, hình chữ Vn này s làm cho đau đớn kinh khng lm đó!"
Bao nhiêu năm nay, tôi chưa thy những phn âm vong này phm ti thêm ln nữa, có nhiu tên còn năn nỉ tôi cho li trong KTT vì được no đủ, m áp - chỉ ti là bị giam lng thôi!
          * Có ln Ti đem KTT của mình v bảo tôi: "Con bt trong này my đứa, ti nó quy con s quá. M thu qua KTT của M dùm con, cn thn nó sng ra chc nó giết con chết quá!" - Tôi nghĩ thm: chc cũng húng hiếp, khảo tra người ta dữ lm, bây giờ mi s bị tr thù… Tôi ry mng cháu mt hi, khuyên: "Điu thin, lòng t ái và bao dung mi khut phc được người! Sc mnh chỉ làm sinh lòng căm phn và ý chí phn kháng, tr thù mà thôi! M làm vic này hăm my năm nay, các phn đều tâm phc, khu phc - Con thy có ai thù ghét M không?"
Thy của Ti không ưa tôi, vì tôi là ph nữ và là người nhà Pht! Tôi thì phi phc ly thy vì là Sư ph của con trai mình, cháu an nguy cũng nhờ tay thầy ân cu Trưc ông tôi luôn phi xung giọng năn nỉ - Còn ông thì lên ging "ta đây", lm lúc tôi c lm mà phi nhịn chịu! Có lần tôi gii bùa cho cháu mà không xin phép thầy, gii xong đầu tôi quay mòng mòng, đi xing ling hơn c người say rưu - gần c tiếng đồng h sau mi tỉnh Tôi cũng chng dám trách công, phi là người khác, tôi "còn lâu mi chịu thua!"
          * Quan Thánh Đế (2):
Minh (học viên Nhân điện của tôi) – Mt hôm ti nhà, tôi thy theo sau là 1 ông mc đồ đỏ ging như Thầy của Ti. Người y đứng ngoài đường nhìn vào nhà - Tôi mời "nhp gia", nhìn k hóa ra không phi, Thầy của Ti m mà cao, người này cao to, vm v - vai u thịt bp - có điu ging nhau là b võ phc màu đỏ!
Tôi hi - ông y bảo mình là thầy của cháu M và cũng là Quan Thánh Đế! Mi lần đầu gp, ông y nói chuyện cũng lịch s, bảo y mun vào tiếp xúc làm bn vi tôi - Tôi khéo léo t chi, vì nh chuyện đã tng biết rt nhiu v v nhng ông Thần v "tà dâm" vi đàn bà cõi thế
Thầy của Minh kiên nhn đến nhà tôi my đêm lin Đến ngày rm, tôi cúng cơm chay - Minh ra nhà không chịu tiếp xúc vi ai, c ngi đó, thỉnh thoảng li cười nht 1 tiếng – Đu c mt mũi đỏ lng Biết ý, tôi bảo chị em không động chm gì ti, để cho ngi yên đó mt mình!
Cúng cơm xong, tôi lịch s mời ông Quan ăn cơm, ông y bo: "Tôi không biết ăn chay!" Đến lúc ngi vào ăn, Minh c cm chén cơm đôi đũa dm dm mãi không ăn, tôi ry thì M ct tiếng nói: "N cô Hai lm tôi mi ăn cơm chay đó cô Hai" Ri li xung giọng thuyết phc tôi cho ông v vi tôi làm "bn"! Toi ct c bo: "Tôi có người ch qun. Nếu ông xin phép họ đưc tôi s đồng ý. Tôi chỉ ông ch đến xin nhé! Ông lên Thiên Đình gp ngài Ngọc Đế, Ngài xung chỉ cho ông lin, h có Lệnh bài là tôi bng lòng." thot cái vía tôi thy ông đứng trên mây tht cao cung tay trưc mt chờ xin – Thy ông đứng hoài đó tôi biết ông không nhp vào Thiên Đình đưc! Bèn gi ông v hi, ông y bo: "Tôi chưa xin phép tiếp kiến đưc".
V sau, có ln ông nói năng ngang ngưc, tôi ni điên đánh cho mt trn, t y ti nay mt mt - không h thy ti nữa, cũng không theo cháu M.
Bn thân tôi tế nhị, lịch s và tôn trọng tt c mọi người, mọi gii - Tôi chỉ phn kháng khi nào bị xúc phm - và khi tôi đánh, tôi ch thua ai bao giờ, có l "Đin ông" tr cho tôi đấy thôi! Nghe nhiu người k li nhng vị thy bùa, thy pháp yếu cơ bị đánh nôn ra máu hoc bò lết, lon thn là chuyện thường phn tôi, nng lm là ti tăm mày mt, nôn nao mt chút ri hết.
           * Cô Tiến (học viên nhân điện) – Mt hôm đang ngi Thin để nhn điện, thy mt phn Linh căn v. Nhìn ging như Quan Âm B Tát – thy người đứng trưc mt thp thoáng, hi Đin thì Đin ng báo không phi là Quan Âm B Tát! Vì không tiếp xúc được, Tiến qua nhờ tôi – phn Linh căn v, ăn vn như B tát nhưng nhìn khuôn mt thì không phi - Người xưng danh là Nam Hi Liên Hoa Pht, bảo phn Linh căn của T là đệ t của Nam Hi - nên người v tr mnh trn, Người dặn là khi nào gp hoạn nạn kêu xin danh tính Nam Hi Liên Hoa, người v cứu cho…
V sau – M Nam Hi đã ng ban cho tôi bài thơ "Hoàn ngôi" - (tôi đã chép tng các bn vào đoạn trước).
          * Linh Điển Trì Địa B Tát: cô Lan (hc viên nhân đin) – Thi gian t lúc hc xong lp 10, Ơn Trên xoay chuyn cho L liên tc đưa các phn vong v ch tôi để nh ng cu! Đúng như lời M nói: "phn hành nào đưa v cửa y!" Khi vong kéo v bên cô Lan – h s cho phép tà thúc gic làm cho L nôn nao, thể nào cũng phi tìm xung tôi, chưa đi được thì đầu óc c bn loạn c lên!
Mi ln xung, tôi li gi tng phn ra xử y như x án - ái giúp được gì thì giúp, ko hung hăng trói nghiến nht li 1 thời gian, cho nghe Kinh k cho thun tính li ri phân phi lc thc cho đi
Cõi âm cũng như cõi dương trn! Có nhiu phn bị hà hiếp, oan c tìm cách kéo ti nhà tôi kêu oan, và tôi li phi "x lý" y ht như "quan Huyn đăng đường" Cn phi tht cn trng, sáng sut và nghiêm minh! Không được x ép, x oan người vô ti – Lm lúc tôi mun điên c đầu khi phi tp trung thn lc để "tra án"! khi xong vic - tôi c như 1 qu bóng bị xì hơi, mt l - hơn c người lao động tay cn Có khi leo lên giường nằm mê mê c bui!
Có ln cô Lan tự nhiên bị nôn ói - Liên tc my tiếng đồng h. Đin cho tôi mãi mà không được (lúc đó tôi đi vng) – Đến chiu v L đin bảo cho tôi biết chuyn Tôi ng nhìn thy 2 vong yêu tinh đàn ông áng vào, và hin chúng đang sau sàn nước nhà cô L – dưới gc cây khế!
Tôi vừa báo cho L biết, đã thy hai vong ti đứng bên cửa s ri - Tôi tiếp xúc vi h, vừa năn nỉ vừa khéo léo "hù dọa": "Cô L là hc trò của tôi, cô L gp nguy tôi không th b, nếu tôi trình vic này v trên, B trên s cho người v hành xử, các vị đâu được bình an! Chi bng xin cho cô L dâng l cu an, 2 vị nhn ri ra đi cho đẹp c đôi đàng" Hai vong y bng lòng, đòi l vt là 1 con mèo đen đập chết đem cúng. Tôi bảo: "Không, chúng tôi là người tu hc Pht pháp không được phép sát sinh!" n nỉ chc nữa, hắn bng lòng cúng 2 con cá lóc luc chín (để nguyên con, không đánh vy - làm sch nht ri luc) - Đôi bên thỏa thun ngày 13 giờ Ng s cúng
Ti hôm sau, L nm m thy 1 người ph nữ trung niên mc đồ bà ba v bảo: "Ta là B Tát, để ta v gii hoạn nn cho con nghe!"
Cô L xung nhà tôi ngày 12 âm lịch – Vừa ti có 10 phút, tôi thy 1 vị bướco nhà, ăn vn y như Quán Âm B Tát, nhưng nhìn k tôi thy không phi M Quán Âm, và người này nhân dng rt cao, phi chng lm80 (PB chỉ cao lm60 là cùng!)
Tôi xin phép hi danh tính, Người bảo: "Ta là Trì Địa B Tát" - Nghe vy, tôi cung kính nói "Con chào M". Vị B Tát y phì cười, bo "Trì Địa là đàn ông". Xong - Người bo phn Linh căn ca cô Lan là đệ t ca Người, nay gp nn ln Người ra mt ng cu: "2 tên đó là con yêu râu xanh, thy con có năng lc cao chúng nó "hp đồng tác chiến" - phép đã nhp vào người con được ri.
Đây là kiếp nn ln trong đời con đó! Ta cũng không th cu con ngay tc thì - Chỉ khi thành án mi x đưc. Ta dn con: nếu thy có gì bt thường, ngay lp tc gọi cho cô Hai đây ng cu. Nếu gọi không đưc thì thp 3 cây nhang ra đứng giữa trời xin danh tính Trì Địa B Tát, ta v cu cho con"!
Nói xong, Người ra đi - hai con yêu tinh li ti (thì ra chúng đã theo cô Lan và nghe thy c mọi chuyện) - Tôi bo: "Các người mun kiếm chuyện nữa sao. Hôm nay là ngày 12, trưa mai mi ti ngày cúng – Mun đòi hi gì nữa đây!" Nào ngờ hai vong nọ cung tay chào ri nói: "Chúng tôi chỉ ti chào cô Hai ri đi, chúng tôi s rời đi ngay tc thì và không bao giờ tr li, chúng tôi không nhn l cúng - và xin hãy tha mng cho chúng tôi". Chỉ có thế ri họ đi mt, chị em chúng tôi vui mng không k xiết.
Sau này nghiệm li: Đúng là M B trên đã xoay chuyn cho các phn Linh căn tìm v ch tôi – để (theo lời M nói) "Th Đin", rèn luyện năng lc, ri tr v ch mình nhà hành Thiện tr đời!
Tôi cũng thy mình không ging ai: Các phn Linh căn ln thường thích quy t đệ t hoc tín đạo thành lp Đạo Tràng để Hoằng pháp. Riêng bn thân tôi li chỉ thích thanh tịnh, sng l mình lng l - không ưa giao tiếp bn bè, nói đúng hơn là không mun tiếp xúc vi ai, ti ngày chỉ rao trông nhà, và chỉ có bnh nhân là ti gp tôi d mà thôi ma chay, cưới hi, đám tic xa gn tôi cũng gi phong bì đến chúc ri trn bit.
          * Chị Th (hc trò nhân đin) - là v của anh Th - xưa nguyên là Tiu đoàn trưởng, bị đạn chn thương ct sng, v sau đau nhc sut và teo hai chi dưới Bác sĩ Cự chữa mãi không được, gii thiu vào tôi - và tôi cũng thua! (Vic này tôi s k chi tiết sau). Chị Th theo hc nhân đin đã đến lp 13, năng lc cm ng bn thân rt nhy! Mt hôm nhân ngày ch nht, chị vào nhà tôi để nhn đin (thường các hc viên tp trung li nhà tôi nhn đin thì cm ng mnh hơn t nhn nhà).
Lúc đó, Kh cũng là hc viên đến nhn đin, Kh vừa ti, bước vô nhà - tôi thy phân Linh căn của Kh là Ngũ Cô Nương của Thp Đin Diêm La cung cũng ti, bước vào nhà cung tay chào tôi l cái ri nói "Tôi ti ly chào Mu M" – Ri phc xung qu ly chị Th l ly! Tôi hi, Ngũ cô nương đáp: "Linh căn của cc ch đây là Mu M ng Hu cung của Thp Đin Diêm La - Tôi đi v vn thường đến chào M!"
Mt thời gian sau - Trong lúc chng chị Th bị hành bnh đau đớn kinh khng, không có cách nào cm được, chị Th vào nhà tôi thp hương xin M gii cu! Đt nhiên tôi nhìn thy l vị người quc thước phương phi, tráng kin, ăn vn toàn l màu đen - Vị y bước vào ti cửa thì đứng li bên ngoài, tôi hi - Người y xưng danh tính: "Ta - Cung ch ca Thp Điện Diêm La cung!". Tôi ngc nhiên, hi li! Người y bo: "Ta đã nói ri đấy thôi, ta là Cung ch ca Thp Điện." - "Xin Người cho biết Người đến đây dy bo con điu gì?" - "Không! Ta chỉ xin cô cho tiép xúc vi Bà đây!". Ri vị y quay sang nói vi chị Th: "Phn Linh căn ca Bà vn là Lệnh Mu ca Thp Điện, có chút duyên vi Ta nên Ta v tr cu cho mt phen! Vn ông nhà gieo nhiều nghiệp chưng, cui đời bị vong hn chiến sĩ quy, không ai có th cu được. Chiu nay bà cúng cho Ta 1 đĩa Tam Sên, 2 nưc 2 rưu - cúng trên bàn gia nhà khách khn xin đích danh Ta: "Cung ch ca Thp Điện Diêm La cung!" - Ta s v tr cho ông nhà đỡ đau đớn".
Chị Th làm y lời – qu nhiên chng chị nh bt bệnhMt thời gian sau li tái y như cũ!
          * Cô Kh (học viên nhân điện - Người ngày trưc bị vong thn cp khuy mà tôi đã k). Trong 1 ln ti nhà tôi vào ngày rm - Tôi thy xut hiện 1 cô gái người mnh mai – mc b đồ bng la màu đen tht đai ngang eo. Cô gái y bưc vào nhà xưng danh là "Ngũ côơng Thp Điện Diêm La cung" - (Linh căn chính ca cô Kh) người làm nhiệm vu chiêu tp vong hn!...
Tôi chú ý nhìn: người thì bé nh, mnh mai nhưng giọng nói đanh thép, nghiêm lnh không có tình cm. Hai con mt nho - đuôi dài, ánh nhìn sc so mà lnh lo. Đúng là nhìn vào cô y có th thy c Diêm cung!
T do y tr đi, Kh hay bị hành xác – đủ kiu, đủ chng Mi ln như vy, Kh chy lên tôi - và tôi li mời Ngũ cô nương v năn nỉ xin tha! Mt thời gian sau thì "tm n" - Khi cô Kh có hoạn nạn cu cu, Ngũ cô nương li v ng cu
Cô nương y chng bao gi nói thừa hay thiếu l câu, vi cht ging đều đều, lnh lẽo không hn – chc là phi cng rn như vy thì mi làm được công vic đáng s của Thp Đin! Có ln Kh bị hành nhc đau kinh khng, lên nhà tôi khóc st sùi, Ngũ cô nương v bảo: "Đng có khóc lóc vi tôi, tôi không có động tâm đâu"
Vời những phn Linh căn thì tôi thua, tôi chỉ biết xung ging "năn nỉ ỉ ôi", ch chng làm gì được h - vì h v xác trn hp pháp - có "lnh bài" cùng lm thì tôi cu xin M B trên v can thip giúp, t t ri cũng n!
Trong thời gian đầu tiên mi giác ng bước vào đường đạo, xem như bt đầu hành trình "tu tp" - ai cũng bị đòn nghip, hoạn nn tai ách dn dp, đến "Tht điên bát đảo" ch chng nh nhàng - Và tôi phi có trách nhim dìu đỡ tng người mt cho đến lúc mi chuyn qua đi và cuc sng của chị em hoàn toàn tr li bình thường mi thôi!
Hoạn nn đến t nhiu phía: c đời sng thc ln âm phn - Ai cũng bị "khảp đảo" nng n trong khoảng chng 2 năm thì bt đầu bình n tr li, nếu vn còn kiên tâm vững bước, vững lòng tin thì năng lc càng ngày càng cao! Bng như ngã lòng, thi chí thì b mt đường Đạo - Đã có 8 người hc Nhân đin t nhà tôi không chịu ni s "khảo đảo" - buông tay chịu thua – dn dn các luân xa đóng li như cũ. Tiếc cho bao nhiêu công sc ri mai mt mt!
Ngay trưc, khi mi bt đầu tìm hiu v Nhân điện; qua lời Thy ging t ôi mi biết: Nhng "hành gi Nhân điện" (theo lời Thy) như chúng ta là nhng người đã có căn tu t nhiu kiếp, đến nay mới đưc m luân xa, phát trin con mt tâm linh d dàng như vy! Nhng người thiếu căn thường không có điu kiện học lên lp cao, hay b gi na chng. Thy nói: thường độ chng 15 người học Nhân điện chỉ có 1 người có kh năng làm Thy chữa bệnh cho mọi người, số còn li chỉ cha được cho chính mình và gia đình mà thôi…
Bn thân tôi h tr cho 30 người học nhân điện - nói vui là "t A ti Z"! trong đó có 11 người gii, phát trin cao v tâm linh – Kh năng đó qu thc nhờ ân phúc ca B trên!